Danh mục

Thị trường chứng khoán và tác động của nó đến thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO

Số trang: 4      Loại file: doc      Dung lượng: 54.00 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt Nam cũng không thể tách rời xu thế đó. Thị trường chứng khoán (TTCK) hình thành và phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thị trường chứng khoán và tác động của nó đến thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO Thị trường chứng khoán và tác động của nó đến thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO Ngày 09/5/2007, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo khoa học với chủ đề “Thị trường chứng khoán và tác động của nó đến thị trường tài chính Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Công thương Việt Nam đồng tổ chức. Hội thảo đã thu hút được sự quan tâm của các nhà tạo lập chính sách, các cán bộ khoa học của các bộ, ngành và các viện nghiên cứu trong nước. Hội thảo đã tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây: 1.Vai trò của TTCK và thị trường tài chính Việt Nam đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng không thể tách rời xu thế đó. Thị trường chứng khoán (TTCK) hình thành và phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Năm 2006 và quý I/2007, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (Hostc) tăng 144% năm 2006 và 40% trong quý I/2007, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4% và 41% trong quý I/2007. Số lượng hàng hóa trên thị trường không ngừng tăng lên và hiện nay có 107 loại cổ phiếu niêm yết tại Hostc và 86 cổ phiếu niêm yết tại Hastc. Số lượng tài khoản cũng tăng mạnh, đến cuối tháng 3/2007 đã có 158.376 tài khoản giao dịch được mở tại các công ty chứng khoán. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) và 24,4 tỷ USD quý I/2007 (chiếm khoảng 40% GDP), giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh chóng với 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ, 35 quỹ đầu tư (23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước), gần 50 tổ chức đầu tư theo hình thức ủy thác qua các công ty chứng khoán, 41 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký, 8 công ty kiểm toán độc lập. Khung pháp lý cho hoạt động và phát triển TTCK từng bước được hoàn thiện, Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. Cùng với thị trường tập trung, giao dịch các cổ phiếu của khoảng 6.700 công ty cổ phần được thực hiện trên thị trường phi tập trung, hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên Hostc. Bên cạnh những thành tựu đạt được, TTCK Việt Nam mới phát triển và không thể tránh khỏi những hạn chế, chủ yếu bao gồm: – Mức vốn hóa trên thị trường tăng nhanh, nhưng lượng vốn hóa đạt thấp, quy mô TTCK còn nhỏ. TTCK Việt Nam phát triển chưa ổn định, chưa phải là kênh huy động quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam, biến động trên TTCK chưa phản ánh đúng trạng thái của nền kinh tế; – Lượng hàng hóa trên TTCK còn ít, dẫn đến mất cân đối cung cầu và những biến động bất lợi cho thị trường. Hậu quả là, chỉ số P/E (giá trên thu nhập) quá cao với mức tăng bình quân 21 lần và khoảng 1/4 công ty đạt 30-70 lần. Chính vì vậy, khi thị trường sụt giảm thì giá cổ phiếu đồng loạt giảm mạnh, kể cả những cổ phiếu được coi là có chất lượng; – Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực của các trung tâm giao dịch chứng khoán và của các công ty chứng khoán không theo kịp được sự phát triển quá nhanh của thị trường, nhiều công ty chứng khoán bị quá tải, hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK chưa đầy đủ; – Tính dễ bị tổn thương của TTCK Việt Nam khá cao do phụ thuộc nặng nề vào các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi các công cụ quản lý và giám sát TTCK còn hạn chế; – Diễn biến thất thường của TTCK Việt Nam thời gian qua là do nhiều nguyên nhân, bao gồm: sự thiếu hoàn chỉnh của hành lang pháp lý, sự mất cân đối cung cầu chứng khoán, tình trạng đầu cơ và đầu tư theo bầy đàn, tính công khai minh bạch của thị trường còn hạn chế, v.v. 2.2. Tác động của TTCK đến hệ thống ngân hàng Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán giảm hoặc tăng, cũng như ảnh hưởng đến dòng luân chuyển vốn (capital flow) : vốn được chuyển từ TTCK sang thị trường tiền tệ hoặc ngược lại.Thêm vào đó, thị trường chứng khoán phát triển còn tạo thêm những công cụ mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có thể mở rộng khả năng tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ. Điều này thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, đồng thời hỗ trợ NHTW thực hiện tốt vai trò điều tiết tiền tệ thông qua các công cụ CSTT, nhất là thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Việc mua, bán chứng khoán của NHNN với các NHTM sẽ có tác dụng mở rộng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông, qua đó mà khối lượng tiền tệ được điều tiết theo mục tiêu đã định. TTCK đang thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, tạo ra sự phát triển mạnh hơn của thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tín dụng ngắn hạn, góp phần giảm gánh nặng tín dụng ngân hàng. Lượng vốn từ hệ thống ngân hàng chuyển sang TTCK tăng đáng kể thông qua cho vay các dự án, hợp đồng mua lại về chứng khoán, cầm cố, thế chấp chứng khoán, v.v. Về hoạt động cấp tín dụng, các TCTD được phép cấp tín dụng cho các hoạt động liên quan đến TTCK. Tuy nhiên, báo cáo của các TCTD cho thấy, tổng dư nợ cho vay để đầu tư và kinh doanh chứng khoán còn thấp, nhưng tiềm ẩn rủi ro gia tăng nợ xấu kh ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: