Thiên y Ana và sự tiếp giao văn hóa tại các miếu thờ trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 102.29 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nội dung bài viết xác định nữ thần Thiên Y Ana được người Chăm thờ tự từ bao giờ? Vì cho đến nay, không còn lại những dấu tích vật chất liên quan đến nguồn gốc tín ngưỡng của người Chăm về bà. Nhưng qua các truyền thuyết, các địa danh mang thánh tích lại cho chúng ta biết tục thờ nữ thần Thiên Y Ana dường như có mặt trên khắp lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa xưa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thiên y Ana và sự tiếp giao văn hóa tại các miếu thờ trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵnginh Th Trang: Thi˚n Y ANA vš s tip giao vn h‚a...80THIÊN Y ANA VÀ SỰ TIẾP GIAO VĂN HÓATẠI CÁC MIẾU THỜ TRÊN ĐỊA BÀNQUẬN NGŨ HÀNH SƠN,THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNGINH TH TRANG*ữ thần Thiên Y Ana còn gọi là Pô Inư Nagar(tiếng Chăm gọi pô là ngài, là bà; inư là mẹ;nagar là xứ sở, đất nước hay đô thị). Tuynhiên, thật khó xác định nữ thần Thiên Y Ana đượcngười Chăm thờ tự từ bao giờ? Vì cho đến nay,không còn lại những dấu tích vật chất liên quanđến nguồn gốc tín ngưỡng của người Chăm về bà.Nhưng qua các truyền thuyết, các địa danh mangthánh tích lại cho chúng ta biết tục thờ nữ thầnThiên Y Ana dường như có mặt trên khắp lãnh thổcủa vương quốc Chăm Pa xưa.1. Đôi nét về vùng đất Ngũ Hành SơnQuận Ngũ Hành Sơn nằm về phía Đông - Namcủa thành phố Đà Nẵng, được thành lập theoNghị định số 07/1997/NĐ-CP ngày 23/01/1997của Thủ tướng Chính phủ, gồm 4 phường: KhuêMỹ, Mỹ An, Hòa Quý và Hòa Hải. Phía Đông giápbiển Đông; phía Tây giáp huyện Hòa Vang và quậnCẩm Lệ; phía Bắc giáp quận Hải Châu và quận SơnTrà; phía Nam giáp với huyện Điện Bàn của tỉnhQuảng Nam. Diện tích tự nhiên là 36,52 km2, dânsố 61.441 người, tốc độ tăng dân số bình quânhằng năm là 1,20%.Tư liệu khảo cổ học cho thấy, mảnh đất quanhnhững ngọn núi Cẩm Thạch (Ngũ Hành Sơn) đãcó cư dân cổ cư trú ít nhất từ 3.000 năm trước,N* Trng Đi hc S phm, Đi hc Đà Nngthuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí - tiền Sa Huỳnhvà có thể còn sớm hơn khi khu vực này vẫn cònsát biển. Các nhà khảo cổ học nhận định rằng:“Ngũ Hành Sơn từng là một làng - bến - thị tứ nhỏ(ý kiến của giáo sư Trần Quốc Vượng) nằm dướinhững ngọn núi Cẩm Thạch, soi bóng xuốngdòng sông Cẩm Lệ; thông thương giữa hai vùngquan trọng của vương quốc Chăm Pa thời bấy giờ:Rudrapura (Đà Nẵng) và Champura (Hội An). Cưdân nơi này tích hợp trong mình đầy đủ tố chấtcủa các ngành kinh tế: nông - công - lâm - ngư thương. Trong mối tương quan với thương cảngCù lao Chàm và vùng Cửa Đại, chúng tôi cho rằng,Ngũ Hành Sơn là một trung tâm buôn bán nhỏ,nơi tiêu thụ, trung chuyển, thương chuyển củaTrung Quốc, Ả Rập và các quốc gia khác trên conđường tơ lụa quốc tế mà Cù lao Chàm là điểmdừng chân khá thường xuyên”1.Còn theo các thư tịch cổ, thì dưới thời nhà Hán,nơi đây thuộc quận Nhật Nam. Căn cứ vào cổ sửTrung Hoa, GS. Phan Khoang cho rằng: “Từ hậu bánthế kỷ thứ ba trước Tây lịch, trên các đồng bằngTrung Việt ngày nay, từ Khánh Hòa ra đến núi HảiVân tỉnh Quảng Nam, đã có những man di giốngMalayo-polynésiens từ các hải đảo tràn đến ở. Ấy làtổ tiên của người Chăm. Đến thế kỷ I, man di nàyđã khá đông nên đã cống nhà Hán, rồi chống lạinhà Hán”2.S 4 (45) - 2013 - Di sn vn h‚a phi vt thĐến cuối nhà Đông Hán (Hán Hiến Đế LưuHiệp, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 - 192), một thổ dântên là Khu Liên ở Tượng Lâm nổi lên đã giết viênhuyện lệnh và tự xưng làm vua Lâm Ấp. Lâm Ấpđược sử Trung Quốc chép như là tên đầu tiên củaquốc gia sau này được gọi là Chiêm Thành3. Vàonăm 1306, với sự kiện vua Chăm là Chế Mân dângcho vua Trần Anh Tông hai châu Ô và Lý để làmsính lễ cưới công chúa Huyền Trân của nước Việt,thì mảnh đất này thuộc về lãnh thổ Đại Việt. SáchNam - Việt lược sử chép: “Năm 1305, Anh Tông đưacông chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành làChế Mân. Chế Mân dâng hai tỉnh Ô và Rí cho AnNam, sau cải gọi là Thuận Châu và Hóa Châu”4. Mộtnăm sau (1307), nhà Trần đổi hai châu Ô và Lýthành Thuận Châu và Hóa Châu. Vùng đất NgũHành Sơn thuộc Hóa Châu. Từ đây, các cuộc di dâncủa người Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ vàovùng đất mới diễn ra.Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến đánhChiêm Thành, một số binh sĩ, tướng lĩnh trongđoàn quân này sau khi chiến thắng đã không rútvề quê cũ, mà ở lại giữ gìn an ninh, quản lý xã hộitrên vùng đất mới. Đến thời kỳ các chúa Nguyễnthì các đợt di dân về phương Nam diễn ra càngmạnh mẽ hơn. Và, thời kỳ này góp phần khôngnhỏ để tạo nên diện mạo dân cư vùng đất NgũHành Sơn. Ngoài lực lượng nông dân, thợ thủcông, những người buôn bán, nông dân sốngbằng nghề trồng lúa nước còn có một lực lượngkhá quan trọng được chúa Nguyễn dùng vào khaithác nơi đây là những tù binh bắt được trong cáccuộc chiến tranh với đàng Ngoài, được đưa đến đểlập nghiệp tại vùng đất mới. Ban đầu, người dândi cư phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn, sự ácnghiệt của khí hậu, sự chống đối của người Chămbản địa vẫn đang bám trụ tại đây. Tuy nhiên, vớibản tính cần cù, chịu khó của những người nôngdân chân chất, với sự ngoan cường trong tâm thếcủa kẻ “không còn gì để mất”, những lưu dân Việtđã trụ lại trên mảnh đất này khai khẩn đất đai,dựng làng lập ấp, khẳng định vị trí của mình ởvùng đất mới.Sau khi định cư, thành lập xóm làng thì cácthiết chế văn hóa cũng được hình thành, đã tạođiều kiện cho sự hội nhập, giao lưu và tiếp biếnvăn hóa giữa người Việt và người Chăm diễn rathuận lợi hơn. Mỗi làng đều cây dựn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thiên y Ana và sự tiếp giao văn hóa tại các miếu thờ trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵnginh Th Trang: Thi˚n Y ANA vš s tip giao vn h‚a...80THIÊN Y ANA VÀ SỰ TIẾP GIAO VĂN HÓATẠI CÁC MIẾU THỜ TRÊN ĐỊA BÀNQUẬN NGŨ HÀNH SƠN,THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNGINH TH TRANG*ữ thần Thiên Y Ana còn gọi là Pô Inư Nagar(tiếng Chăm gọi pô là ngài, là bà; inư là mẹ;nagar là xứ sở, đất nước hay đô thị). Tuynhiên, thật khó xác định nữ thần Thiên Y Ana đượcngười Chăm thờ tự từ bao giờ? Vì cho đến nay,không còn lại những dấu tích vật chất liên quanđến nguồn gốc tín ngưỡng của người Chăm về bà.Nhưng qua các truyền thuyết, các địa danh mangthánh tích lại cho chúng ta biết tục thờ nữ thầnThiên Y Ana dường như có mặt trên khắp lãnh thổcủa vương quốc Chăm Pa xưa.1. Đôi nét về vùng đất Ngũ Hành SơnQuận Ngũ Hành Sơn nằm về phía Đông - Namcủa thành phố Đà Nẵng, được thành lập theoNghị định số 07/1997/NĐ-CP ngày 23/01/1997của Thủ tướng Chính phủ, gồm 4 phường: KhuêMỹ, Mỹ An, Hòa Quý và Hòa Hải. Phía Đông giápbiển Đông; phía Tây giáp huyện Hòa Vang và quậnCẩm Lệ; phía Bắc giáp quận Hải Châu và quận SơnTrà; phía Nam giáp với huyện Điện Bàn của tỉnhQuảng Nam. Diện tích tự nhiên là 36,52 km2, dânsố 61.441 người, tốc độ tăng dân số bình quânhằng năm là 1,20%.Tư liệu khảo cổ học cho thấy, mảnh đất quanhnhững ngọn núi Cẩm Thạch (Ngũ Hành Sơn) đãcó cư dân cổ cư trú ít nhất từ 3.000 năm trước,N* Trng Đi hc S phm, Đi hc Đà Nngthuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí - tiền Sa Huỳnhvà có thể còn sớm hơn khi khu vực này vẫn cònsát biển. Các nhà khảo cổ học nhận định rằng:“Ngũ Hành Sơn từng là một làng - bến - thị tứ nhỏ(ý kiến của giáo sư Trần Quốc Vượng) nằm dướinhững ngọn núi Cẩm Thạch, soi bóng xuốngdòng sông Cẩm Lệ; thông thương giữa hai vùngquan trọng của vương quốc Chăm Pa thời bấy giờ:Rudrapura (Đà Nẵng) và Champura (Hội An). Cưdân nơi này tích hợp trong mình đầy đủ tố chấtcủa các ngành kinh tế: nông - công - lâm - ngư thương. Trong mối tương quan với thương cảngCù lao Chàm và vùng Cửa Đại, chúng tôi cho rằng,Ngũ Hành Sơn là một trung tâm buôn bán nhỏ,nơi tiêu thụ, trung chuyển, thương chuyển củaTrung Quốc, Ả Rập và các quốc gia khác trên conđường tơ lụa quốc tế mà Cù lao Chàm là điểmdừng chân khá thường xuyên”1.Còn theo các thư tịch cổ, thì dưới thời nhà Hán,nơi đây thuộc quận Nhật Nam. Căn cứ vào cổ sửTrung Hoa, GS. Phan Khoang cho rằng: “Từ hậu bánthế kỷ thứ ba trước Tây lịch, trên các đồng bằngTrung Việt ngày nay, từ Khánh Hòa ra đến núi HảiVân tỉnh Quảng Nam, đã có những man di giốngMalayo-polynésiens từ các hải đảo tràn đến ở. Ấy làtổ tiên của người Chăm. Đến thế kỷ I, man di nàyđã khá đông nên đã cống nhà Hán, rồi chống lạinhà Hán”2.S 4 (45) - 2013 - Di sn vn h‚a phi vt thĐến cuối nhà Đông Hán (Hán Hiến Đế LưuHiệp, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 - 192), một thổ dântên là Khu Liên ở Tượng Lâm nổi lên đã giết viênhuyện lệnh và tự xưng làm vua Lâm Ấp. Lâm Ấpđược sử Trung Quốc chép như là tên đầu tiên củaquốc gia sau này được gọi là Chiêm Thành3. Vàonăm 1306, với sự kiện vua Chăm là Chế Mân dângcho vua Trần Anh Tông hai châu Ô và Lý để làmsính lễ cưới công chúa Huyền Trân của nước Việt,thì mảnh đất này thuộc về lãnh thổ Đại Việt. SáchNam - Việt lược sử chép: “Năm 1305, Anh Tông đưacông chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành làChế Mân. Chế Mân dâng hai tỉnh Ô và Rí cho AnNam, sau cải gọi là Thuận Châu và Hóa Châu”4. Mộtnăm sau (1307), nhà Trần đổi hai châu Ô và Lýthành Thuận Châu và Hóa Châu. Vùng đất NgũHành Sơn thuộc Hóa Châu. Từ đây, các cuộc di dâncủa người Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ vàovùng đất mới diễn ra.Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến đánhChiêm Thành, một số binh sĩ, tướng lĩnh trongđoàn quân này sau khi chiến thắng đã không rútvề quê cũ, mà ở lại giữ gìn an ninh, quản lý xã hộitrên vùng đất mới. Đến thời kỳ các chúa Nguyễnthì các đợt di dân về phương Nam diễn ra càngmạnh mẽ hơn. Và, thời kỳ này góp phần khôngnhỏ để tạo nên diện mạo dân cư vùng đất NgũHành Sơn. Ngoài lực lượng nông dân, thợ thủcông, những người buôn bán, nông dân sốngbằng nghề trồng lúa nước còn có một lực lượngkhá quan trọng được chúa Nguyễn dùng vào khaithác nơi đây là những tù binh bắt được trong cáccuộc chiến tranh với đàng Ngoài, được đưa đến đểlập nghiệp tại vùng đất mới. Ban đầu, người dândi cư phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn, sự ácnghiệt của khí hậu, sự chống đối của người Chămbản địa vẫn đang bám trụ tại đây. Tuy nhiên, vớibản tính cần cù, chịu khó của những người nôngdân chân chất, với sự ngoan cường trong tâm thếcủa kẻ “không còn gì để mất”, những lưu dân Việtđã trụ lại trên mảnh đất này khai khẩn đất đai,dựng làng lập ấp, khẳng định vị trí của mình ởvùng đất mới.Sau khi định cư, thành lập xóm làng thì cácthiết chế văn hóa cũng được hình thành, đã tạođiều kiện cho sự hội nhập, giao lưu và tiếp biếnvăn hóa giữa người Việt và người Chăm diễn rathuận lợi hơn. Mỗi làng đều cây dựn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thiên y Ana Di sản văn hóa Giao tiếp văn hóa Miếu thờ Ngũ Hành Sơn Vương quốc Chăm PaGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu lớp 10
85 trang 373 0 0 -
9 trang 60 0 0
-
Luật tục Ê-đê về bảo vệ tài nguyên môi trường trong mối tương quan với pháp luật hiện nay
13 trang 54 0 0 -
Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian
7 trang 53 0 0 -
Đánh giá sự hài lòng của du khách đối với sản phẩm du lịch ban đêm tại Hà Nội
6 trang 52 0 0 -
Phát triển du lịch di sản văn hóa của Trung Quốc và kinh nghiệm cho thành phố Hồ Chí Minh
9 trang 50 0 0 -
10 trang 49 0 0
-
Ứng dụng công nghệ số hóa 3D cho các di tích lịch sử tại thành phố Nha Trang
8 trang 43 0 0 -
Thông báo số 3019/TB-TCHQ 2013
6 trang 39 0 0 -
Di sản văn hóa với truyền thông
2 trang 39 0 0