Danh mục

Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản _1

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 193.72 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tôi bắt đầu bằng một giai thoại: Vương An Thạch (1021-1086) làm bài thơ có hai câu: Minh nguyệt sơn đầu khiếu Hoàng khuyển ngọa hoa tâm Minh nguyệt là trăng sáng, sơn đầu khiếu là kêu trên đầu núi, Hoàng khuyển là chó vàng, ngọa hoa tâm là nằm trong lòng hoa, tức là chỗ nhụy hoa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản _1Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản Tôi bắt đầu bằng một giai thoại: Vương An Thạch (1021-1086) làm bài thơ cóhai câu: Minh nguyệt sơn đầu khiếu Hoàng khuyển ngọa hoa tâm Minh nguyệt là trăng sáng, sơn đầu khiếu là kêu trên đầu núi, Hoàng khuyển làchó vàng, ngọa hoa tâm là nằm trong lòng hoa, tức là chỗ nhụy hoa. Nghĩa là: Trăngsáng kêu trên đầu núi, chó vàng nằm giữa đóa hoa. Thật là vô lý! Trăng sáng làm sao lạikêu? Chó làm sao nằm được giữa đóa hoa? Nhà thơ Tô Thức, hiệu là Tô Đông Pha(1037-1101) cũng cho là vô lý bèn chữa lại: Minh nguyệt sơn đầu chiếu Hoàng khuyển ngọa hoa âm Nghĩa là: Trăng sáng dọi trên đầu núi, chó vàng nằm dưới bóng hoa. Chữachữ khiếu thành chữ chiếu, tâm thành âm, cho là đắc sách. Chuyện đến tai Vương AnThạch, Vương An Thạch cười chê Đông Pha kiến thức hẹp hòi. Sau này vì mang tội làmthơ phỉ báng Triều đình, Tô Đông Pha bị biếm ra Hoàng Châu, ở đó có con chim tên là“minh nguyệt” và có loài sâu tên là “hoàng khuyển”, bấy giờ mới biết mình bị nhầm. Vàđọc thơ ai, ông không dám chữa nữa!(1). Tiếp đây là bài thơ Giản dị, một bài thơ được nhắc đến như là khuynh hướng“siêu thoát”, không ăn nhập với cuộc sống kháng chiến. Quả thật trong bài thơ này cónhững câu, những hình ảnh rất thơ mộng: Suối tự ngàn năm reo nhạc đá Người không biết tuổi tháng ngày trôi ... Trong nhà sum họp những hồn tươi Nhựa sống tô duyên nét miệng cười Da sạm phong sương, thân rắn rỏi Ngây thơ hoa đỏ giắt bên tai Lê Khắc Thiền, tác giả bài thơ, nguyên đại tá, Viện trưởng Bệnh viện Trung ươngQuân đội 108, rồi Viện trưởng Viện Đông y. Ông tốt nghiệp bác sĩ, trường Y Hà Nộitháng 5 năm 1946. Ngay sau đó ông tham gia Vệ quốc đoàn, phụ trách quân y mặt trậnBình Trị Thiên. Lê Khắc Thiền kể lại: Kháng chiến bùng nổ, các con đường ở đồngbằng và trung du Bình Trị Thiên đều bị quân Pháp phong tỏa. Đoàn ông phải đi ngượcvề phía tây, ba ngày đến bản Cà Roòng, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, đi ngang quađộng Phong Nha. Lũ đột ngột, không thể vượt suối lớn đành “nghỉ bước đường trường”dừng lại ở Cà Roòng. Dân ở đây đều theo kháng chiến. Cuộc sống thanh b ình quá nhưđang ở thời kỳ Công xã nguyên thủy, chưa phân hóa giai cấp. Và ở đây, tháng Tám1947, ông viết bài thơ Giản dị. Được ba hôm nước rút, đoàn tiếp tục lên đường vào thamgia xây dựng chiến khu Mỹ Hòa ở huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên(2). Bài thơ có mộtchút “thi vị hóa” nhưng đó là hoàn cảnh thực, tình cảm thực của người trí thức ngày đầutham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, dù gian khổ vẫn thanh thản lạc quan. Nêu lên như thế để thấy vấn đề tiếp nhận. Mối quan hệ giữa văn bản và sự tiếpnhận của người đọc rõ ràng là chưa tương ứng. Văn bản được cấu trúc ổn định, ý nghĩagiá trị của văn bản được chuyển dịch liên quan đến người đọc cụ thể và theo những thờiđiểm khác nhau. Có khi tâm thế tiếp nhận chưa qua thực tế, tức là còn thiếu những kiếnthức văn hóa cần thiết, có khi bị chi phối bởi ý thức hệ tư tưởng chính trị một thời... Vàvì vậy văn bản được nhìn dưới những góc lệch. Nhà thơ lựa chọn ngôn ngữ theo một hệ thống nào đó để diễn đạt và biểu hiệnđúng trạng thái tình cảm, tâm lý trong những khoảnh khắc nhất định. Vượt ra ngoàikhoảnh khắc đó, trong chừng mực, người đọc khó “nhập cuộc”, cảm thông với nhà thơ,dù cấu trúc văn bản là một cấu trúc hiện thực. Đọc nhiều lần, đặt ra nhiều giả định, vậndụng kiến thức nhiều lĩnh vực mới mong tiếp cận được ý nghĩa, tính đa trị của văn bản,nhất là những văn bản có khi hình thành ngoài ý định của tác giả. Trước một văn bản,người đọc ở vào ba trạng thái: - Không phát hiện được gì. Văn bản như là sự đánh đố. - Nêu lên ý nghĩa mà không trùng với ý nghĩa đích thực của văn bản. - Phát hiện ý nghĩa văn bản dưới những hàm ẩn, biểu tượng. Trạng thái thứ ba là trạng thái lý tưởng, khi đó giữa văn bản và người đọc có sự liênthông. Người đọc đi vào cấu trúc văn bản và cả cấu trúc ngoài văn bản. Tất nhiên khôngphải tác phẩm văn học nào cũng như thế. Trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Iu. Lotmancho rằng “khái niệm văn bản không có tính tuyệt đối. Nó liên quan đến một loạt nhữngcấu trúc tâm lý, lịch sử văn hóa khác kèm theo”. Và khi quan niệm về các cấu trúc ngoàivăn bản, tác giả tập trung vào sự phân chia, phân đoạn hoặc lắp ghép cấu tạo tác phẩm.“Chúng ta có thể xem một bài thơ độc lập của chuỗi bài thơ như một văn bản. Như thếquan hệ của nó với chuỗi bài thơ sẽ là quan hệ ngoài văn bản”(3). “Các văn bản được sángtạo như những tác phẩm độc lập, sau đó lại hoạt động như các thành phần thuộc một vănbản lớn hơn của một tác giả, của một tác giả khác hoặc của tác giả vô danh”(4). Và ông dẫnchứng, minh họa những chương của Evgenhi Onhegin, Va ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: