Danh mục

Thơ haiku của Masuo Basho

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 106.42 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thơ haiku là thể thơ rất ngắn gọn, chỉ có 3 câu, 17 âm tiết. Đề tài trong thơ haiku đơn sơ, giản dị, không gian nhỏ bé, gần gũi, thời gian thường là thời gian hiện tại. Một bài thơ haiku như một lát cắt của dòng chảy không - thời gian nhưng là lát cắt không thể tách rời trong sự vận hành không ngừng nghỉ của vũ trụ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thơ haiku của Masuo Basho JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Science, 2013, Vol. 58, No. 2, pp. 64-71 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THƠ HAIKU CỦA MASUO BASHO Đào Thị Thu Hằng Phòng Tạp chí & TTKHCN, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Masuo Basho là nhà thơ vĩ đại của Nhật Bản, ông chính là người xây dựng nên thể thơ haiku độc đáo của xứ Phù Tang. Thơ haiku là thể thơ rất ngắn gọn, chỉ có 3 câu, 17 âm tiết. Đề tài trong thơ haiku đơn sơ, giản dị, không gian nhỏ bé, gần gũi, thời gian thường là thời gian hiện tại. Một bài thơ haiku như một lát cắt của dòng chảy không - thời gian nhưng là lát cắt không thể tách rời trong sự vận hành không ngừng nghỉ của vũ trụ. Từ khóa: Masuo Basho, thể thơ, cảm thức thẩm mĩ, không gian, thời gian. 1. Mở đầu Masuo Basho là thi sĩ vĩ đại của xứ Phù Tang, nơi mà hoa anh đào và thể thơ haiku chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần dân tộc. Basho tên thuở nhỏ là Masuo Munefusa. Đa phần các cứ liệu lịch sử đều cho rằng ông sinh năm 1644 trong một gia đình samurai (võ sĩ đạo) cấp thấp ở xứ Iga và đã từng làm tiểu đồng cho một lãnh chúa. Nhưng từ năm 24 tuổi, sau khi con trai lãnh chúa – cũng là người bạn thân thiết của Basho qua đời, ông trở thành người tự do và bắt đầu nghiên cứu cổ văn Nhật Bản, Trung Quốc và cả thư pháp. Trải qua nhiều công việc khác nhau, cuối cùng Basho trở thành người giảng dạy thơ haikai, thể thơ mà sau này ông sẽ phát triển, cải biến để khai sinh ra một thể thơ mới, độc đáo, đó chính là haiku. Cái tên Basho gắn liền với ông kể từ khi ông về sống ở một căn lều nhỏ do những người ái mộ và học trò dựng tặng. Trong vườn có trồng cây chuối (ba tiêu: cây chuối) vì thế ông tự gọi mình là Basho và nơi mình ở là Ba tiêu am. Năm 1684, ông bắt đầu cuộc đời lữ nhân. Từ đó ông cho ra đời rất nhiều tập thơ (xen lẫn văn xuôi – vốn là phong cách của văn chương truyền thống Nhật Bản). Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bản dịch thơ từ nguyên tác tiếng Nhật của các dịch giả Vĩnh Sính và Nhật Chiêu. Ngày nhận bài 7/6/2012. Ngày nhận đăng 20/12/2013. Liên lạc Đào Thị Thu Hằng, e-mail: thuhangdao06@yahoo.com 64 Thơ haiku của Masuo Basho 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nguồn gốc và thể thơ Haiku Haiku ra đời vào thế kỉ XVII và Basho chính là ông tổ của thể thơ này. Từ bài hài liên ca (Haikai no renga), một thể thơ mang tính chất trào lộng đời thường, một bài thơ sáng tác theo ngẫu hứng của nhiều tác giả và số lượng câu chữ nhiều hơn, Basho đã sáng tạo thành một dạng thức thơ độc đáo, chỉ với 17 âm tiết, ngắt ra làm ba dòng theo thứ tự thông thường 5/ 7/ 5. Đặc biệt hơn, Basho đã thổi vào haiku một âm hưởng tâm linh bác học và tao nhã nhưng cũng rất hồn hậu đời thường mà liên ca không có. Về mặt hình thức, có thể nói haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ với 17 âm tiết. Khi chuyển ngữ từ tiếng Nhật sang các ngôn ngữ Latinh, người ta thường quen cảm nhận đó là một bài thơ có ba câu nhưng thực chất đó là một câu thơ được ngắt ra làm ba dòng. Tuy nhiên vẫn có những bài haiku có tới 19 âm tiết (5/ 9/ 5) như bài thơ về “con quạ” của Basho mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây, còn nói chung, các bài haiku thường tuân thủ theo nguyên tắc 5/ 7/ 5. Một điều đặc biệt nữa là một bài thơ haiku thường không có nhan đề. Các tập thơ haiku thường được tuyển theo mùa hoặc chủ đề như tập thơ về mùa xuân, về tình yêu. Bên trong mỗi tập thơ, từng bài thơ lại được đánh số thứ tự, nhưng khi bình thơ, người ta thường gọi tên bài thơ theo đối tượng thẩm mỹ trong bài. Chẳng hạn với bài thơ “Ao cũ/ con ếch nhảy vào/ vang tiếng nước xao” thì được gọi là bài thơ “con ếch”, hay bài “Quán bên đường/ các du nữ ngủ/ trăng và đinh hương” thì được gọi là bài “du nữ”. 2.2. Đề tài và nội dung Đề tài trong thơ haiku nói chung cũng như trong thơ Basho rất đỗi giản dị. Đó là những sự vật, sự việc nho nhỏ trong đời sống. Những “sự vật nhỏ bé” ấy nhiều khi giản dị đến bất ngờ, đó có thể là một một âm thanh (tiếng ve kêu, tiếng vượn hú, tiếng chim đỗ quyên), một hình ảnh (cánh hoa đào, nạm tóc mẹ, một chú khỉ)... Nhưng những sự vật sự việc ấy lại luôn được đặt trong cái chỉnh thể, cái toàn diện của vũ trụ, chúng được phản ánh thật hồn nhiên đúng như bản thể của chúng trong tự nhiên. Như vậy, đề tài và nội dung mỗi bài thơ haiku luôn nằm trong một chỉnh thể tưởng như bất chợt nhưng lại vô cùng chặt chẽ. Về nội dung, mỗi bài thơ haiku đều có một tứ thơ nhất định, thường chỉ ghi lại một phong cảnh với vài sự vật cụ thể, trong một thời điểm nhất định để từ đó khơi gợi lên một xúc cảm, một suy tư nào đó thuộc về thiên nhiên, con người. Thơ ca Nhật Bản, nằm trong vùng văn hóa đồng văn nên có ảnh hưởng của thi học Trung Hoa là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, người Nhật sớm biết tinh lọc để haiku trở thành một thể th ...

Tài liệu được xem nhiều: