Thoát vị nghẹt là tình trạng cơ quan ở trong túi thoát vị bị đè ép, thắt nghẽn lại ở cổ túi, dẫn tới rối loạn chức năng, rối loạn tuần hoàn và cuối cùng là rói loạn tổ chức. Đây là một biến chứng nguy hiểm nhất của tất cả cácc loại thoát vị thành bụng, đòi hỏi phải chẩn đoán và cấp cứu kịp thời.
I. Nguyên nhân sinh bệnh Cho tới nay nhiều tác giả giải thích nguyên nhân của thoát vị nghẹt dưới nhiều khía cạnh khác nhau:
1. Do áp lực trong ổ bụng tăng đột...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thoát vị nghẹt (Kỳ 1)
Thoát vị nghẹt
(Kỳ 1)
Thoát vị nghẹt là tình trạng cơ quan ở trong túi thoát vị bị đè ép, thắt nghẽn
lại ở cổ túi, dẫn tới rối loạn chức năng, rối loạn tuần hoàn và cuối cùng là rói loạn
tổ chức. Đây là một biến chứng nguy hiểm nhất của tất cả cácc loại thoát vị thành
bụng, đòi hỏi phải chẩn đoán và cấp cứu kịp thời.
I. Nguyên nhân sinh bệnh
Cho tới nay nhiều tác giả giải thích nguyên nhân của thoát vị nghẹt dưới
nhiều khía cạnh khác nhau:
1. Do áp lực trong ổ bụng tăng đột ngột (ví dụ: nâng vật nặng, ho mạnh….),
làm cho tạng chui qua lỗ thoát vị nhanh, đột ngột nên dẫn tới nghẹt.
2. Do lỗ thoát vị hẹp, cân cơ ở lỗ thoát vị chắc, ít đàn hồi nên dễ bị nghẹt
hơn là lỗ thoát vị to,tạng lên xuống dễ dàng.
3. Do có một quai ruột mới chui qua lỗ thoát vị trong lúc đã có một quai
ruột khác chui xuống.
4. Do quai ruột trong túi thoát vị bị gấp khúc nhiều và bị quay theo trục của
nó.
5. Một số tác giả đã chứng minh rằng: nhu động ruột của quai đến bao giờ
cũng tăng, đồng thời lại có sự gấp khúc của quai ruột nên làm cho dịch và hơi ứ
đọng lại.Vì ứ đọng nhiều làm cho áp lcj trong lòng quai đến tăng cao, dãn to và đè
ép cả quai đi.
6. Nhiều tác giả cũng thừa nhận các yếu tố kể trên và giải thích như sau: áp
lực trong quai đến tăng khá mạnh hoặc rất mạnh làm căng cả lỗ thoát vị vốn đã ít
đàn hồi. Hiện tượng trên sẽ gây một kích thích đau đớn, do đau mà làm tăng phản
xạ co cơ thành bụng, chính co cơ lại làm cho lỗ thoát vị hẹp thêm và dẫn tới tình
trạng không phù hợp giữa cổ túi thì bé mà khối lượng ruột nằm trong bao thoát vị
lại lớn nên dẫn tới nghẹt.
II. Giải phẫu bệnh lý
Đièu nguy hiểm và thường gặp nhất là ruột bị nghẹt. Quai ruột bị nghẹt tổn
thường nhiều hay ít là phụ thuộc vào:
Sự thắt hẹp ở ngay lỗ thoát vị (mức độ thắt hẹp).
Thời gian bị nghẹt lâu hay mới.
Quan sát một quai ruột bị nghẹt ta thấy:
1. Phần ruột tương ứng với vòng thắt của lỗ thoát vị bị tổn thương sớm nhất
và nặng nhất, vòng lỗ thoát vị càng bé thì tổn thương càng nặng và càng sớm. Tổn
thương ở quai đến bao giờ cũng nặng.
2. Phần ruột nằm trong bao thoát vị hoại tử nhanh hay chậm phụ thuộc vào
2
yếu tố:
a. Nếu tĩnh mạch mạc treo bị đè ép trước, trong khi động mạch còn cung
cấp máu phần nào cho tổ chức ruột thì:
- Ruột hoại tử muộn hơn.
- Quai ruột giãn to.
- Lúc đầu quai ruột màu đỏ thẫm, sau chuyển dần sang màu tím.
- Thành dầy do phù nề.
- Lòng ruột tích nhiều dịch và cả bao thoát vị cũng có dịch màu hồng.
- Đến lúc cả động mạch cũng bị tắc làm cho ruột hoại tử từng điểm, từng
đám rồi hoại tử hoàn toàn. Hoại tử bao giờ cũng từ niêm mạc trước, sau đó đến cơ
và thanh mạc.
b. Trường hợp cả động mạch và tĩnh mạch bị tắc ngay từ đầu thì:
- Đoạn ruột bị nghẹt có màu trằng nhợt, chóng hoại tử.
- Dịch ít thấm ra ở lòng ruột và bao thoát vị.
- Đối với các đoạn ruột nằm trong ổ bụng thì tổ thương giống như trong tắc
ruột cơ học.
3. Mạc treo của quai ruột nghẹt bị phù nề, dầy và điều nguy hiểm hơn là
tĩnh mạch bị tắc, không những ở phần bị nghẹt mà có lúc lên cao hơn thậm chí lên
tới gốc mạc treo.
Khi mổ cấp cứu, việc đánh giá tổ thương của quai ruột có ý nghĩa rất quan
trọng. Người phẫu thuật viên phải trả lời cho được câu hỏi “ Đoạn ruột còn có khả
năng hồi phục được nữa không?” để quyết định thái độ xử trí. Muốn vậy trong
nhiều trường hợp phải có thời gian chờ đợi, trước hết phải đắp huyết thanh ấm,
phong bế novocain 0.25% ở gốc mạc ttreo, đợi 15-20 phút nếu thấy:
· Ruột không có nhu động.
· Vẫn mềm nhẽo, màu sắc không hồng trở lại.
· Động mạch mạc treo không đập.
Quai ruột như vậy không còn khả năng hồi phục nữa, phải cắt đoạn.
Ngoài ra cũng cần lưu ý: Có trường hợp ruột tuy hồng trở lạị, vẫn nhu động
nhưng có những ổ hoại tử nhỏ. Trường hợp trên nếu vẫn bảo tồn thì các ổ hoải tử
nhỏ sẽ thủng, gây viêm phúc mạc, rất nguy hiểm cho bênh nhân.
4. Nghẹt ngược chiều.
Là do hai quai ruột chi vào bao thoát vị kiểu W. Khi bị nghẹt, quai ruột
hoại tử lại nằm trong ổ bụng, việc chẩn đoán khó khăn, ngay lúc mổ cũng dễ bỏ
sót nguy hiểm.
5. Nghẹt một phần của thành ruột: Chỉ một phần của thành ruột bị nghẹt,
còn lòng ruột vẫn lưu thông được.
III. Triệu chứng
Lấy điển hình ruột non bị nghẹt trong thoát vị bẹn:
1. Triệu chứng cơ năng.
· Đau dữ dội, đột ngột vùng thoát vị, đau toát mồ hôi khiến bênh nhân phải
đến viện, có khi bị choáng vì đau. Nhiều bênh nhân có thể cho ta biết: Trước đó ở
vùng đau vẫn có khối phồng, lúc xuất hiện, lúc mất đi hoặc tự tay ấn lên được.
Nay khối phồng đau và không tự đẩy lên được nữa.
· Nôn, bí trung đại tiện, biểu hiện ...