Nghiên cứu được tiến hành với mục đích cảm nhiễm bào tử ký sinh trùng Perkinsus olseni vào nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) bằng phương pháp ngâm. Thí nghiệm có ba nghiệm thức gồm ngâm nghêu trong 3 lít nước biển 25‰ có bào tử động (2x105 bào tử/mL), bào tử nghỉ (13 bào tử/ml) của P. olseni và nghiệm thức đối chứng không chứa bào tử. Sau khi ngâm 36 ngày, kết quả ở các nghiệm thức như sau nghêu được ngâm với bào tử động chết 100%, cường độ nhiễm 200 - 1.500 bào tử/cá thể, tỷ lệ nhiễm 93 ± 4,7%; ngâm với bào tử nghỉ nghêu chết 100%, cường độ nhiễm 100 - 1.500 bào tử/cá thể, tỷ lệ nhiễm 80 ± 0%.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thử nghiệm cảm nhiễm bào tử perkinsus olseni vào nghêu bến tre (Meretrix lyrata) bằng phương pháp ngâm
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 3/2017
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
THỬ NGHIỆM CẢM NHIỄM BÀO TỬ Perkinsus olseni
VÀO NGHÊU BẾN TRE (Meretrix lyrata) BẰNG PHƯƠNG PHÁP NGÂM
INFECTION OF PARASITES Perkinsus olseni INTO BEN TRE HARD CLAM
(Meretrix lyrata) BY SOAKING METHOD
Phạm Quốc Hùng1, Nguyễn Thị Hồng Nhung1
Ngày nhận bài: 10/3/2017; Ngày phản biện thông qua: 30/6/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành với mục đích cảm nhiễm bào tử ký sinh trùng Perkinsus olseni vào nghêu
Bến Tre (Meretrix lyrata) bằng phương pháp ngâm. Thí nghiệm có ba nghiệm thức gồm ngâm nghêu trong 3
lít nước biển 25‰ có bào tử động (2x105 bào tử/mL), bào tử nghỉ (13 bào tử/ml) của P. olseni và nghiệm thức
đối chứng không chứa bào tử. Sau khi ngâm 36 ngày, kết quả ở các nghiệm thức như sau nghêu được ngâm với
bào tử động chết 100%, cường độ nhiễm 200 - 1.500 bào tử/cá thể, tỷ lệ nhiễm 93 ± 4,7%; ngâm với bào tử
nghỉ nghêu chết 100%, cường độ nhiễm 100 - 1.500 bào tử/cá thể, tỷ lệ nhiễm 80 ± 0%.
Từ khóa: bào tử động, bào tử nghỉ, cảm nhiễm, Meretrix lyrata, Perkinsus olseni
ABSTRACT
The study was conducted for the purpose of infected by Perkinsus olseni on Ben Tre clam (Meretrix lyrata)
in experimental conditions. Clams were soaked in 3 liters of sea water containing zoospores (2x105 spores/
mL), hypnospores (13 spores/ml) of P. olseni and control treatment not containing spores. After soaking for 36
days, clams soaked with zoospores had mortality at 100%, infection intensity 200 - 1,500 spores/individuals,
prevalence of 93 ± 4.7%; clams soaked with hypnospore had mortality at 100%, intensity of infection
100 - 1,500 spores/individual, rate of infection 80 ± 0%.
Keywords: zoospore, hypnospore, infection, Meretrix lyrata, Perkinsus olseni
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Động vật thân mềm hai mảnh vỏ là nhóm
động vật có tầm quan trọng về kinh tế, tuy vậy
cùng với sự phát triển của nghề nuôi thì dịch
bệnh trên đối tượng này cũng xuất hiện và
bùng phát mạnh hơn trên toàn thế giới. Bệnh
trên động vật thân mềm đã xảy ra trên các đối
tượng khác nhau (hàu, nghêu, trai) gây ra thiệt
hại đáng kể cho nghề nuôi ở nhiều quốc gia
trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Kí sinh trùng đơn bào nội ký sinh thuộc
giống Perkinsus là một trong nhiều nguyên
nhân đã gây ra dịch bệnh trên nghêu.
1
Bệnh do kí sinh trùng đơn bào Perkinsus
được ghi nhận gây thiệt hại nghiêm trọng
nhất về mặt kinh tế trên phạm vi toàn cầu.
Kí sinh trùng nội ký sinh này đã được báo
cáo gây ra tỷ lệ chết cao và thường xuyên
cho nhiều loài động vật thân mềm (hàu, điệp,
bào ngư, nghêu, vẹm, sò huyết và trai ngọc)
nước mặn có giá trị ở tất cả các châu lục [11].
Cảm nhiễm bởi Perkinsus sp. gây hoại tử
mô, giảm tăng trưởng, giảm khả năng sinh
sản, giảm sự tích trữ năng lượng của mô
vật chủ, và gây ra tỷ lệ chết cao và thường
xuyên cho vật chủ [7, 9].
Viện Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Các loài Perkinsus có vòng đời tương tự
nhau với 3 giai đoạn biến thái chính, bao gồm:
thể dinh dưỡng (Trophozoite), bào tử nghỉ
(Hypnospore) và bào tử động (Zoospore). Giai
đoạn thể dinh dưỡng xảy ra trong các mô của
vật chủ còn sống. Nó là một tế bào hình cầu
với một không bào chiếm diện tích lớn trong tế
bào và nhân tế bào ngoại vi nên được gọi là tế
bào nhẫn [11], dinh dưỡng tăng sinh trong mô
và tiến hành phân chia bên trong tế bào vật
chủ. Giai đoạn bào tử nghỉ xuất hiện ở mô của
vật chủ bị nhiễm Perkinsus được ủ trong dung
dịch Fluid Thioglycolate Medium (FTM) [11]
giai đoạn này, thể dinh dưỡng của chúng mở
rộng, thành tế bào phát triển dày lên, hình
thành một giai đoạn phát triển mới gọi là bào
tử nghỉ. Khi bào tử nghỉ được hình thành trong
môi trường FTM sẽ được phân lập và chuyển
vào trong môi trường nước biển, và quá trình
hình thành bào tử động bắt đầu. Giai đoạn bào
tử động xuất hiện trong nước biển. Hàng trăm
bào tử động sẽ hình thành và được phóng thích
ra môi trường ngoài thông qua một hoặc hai
ống nhỏ. Ống này sẽ xuất hiện trên mỗi bào tử
nghỉ trước khi quá trình phân chia tế bào hình
thành bào tử động bên trong diễn ra [4, 6, 8].
Bào tử động mới sử dụng roi để di chuyển
vào vật chủ và lặp lại chu kỳ sống của chúng.
Tất cả các giai đoạn biến thái trong vòng đời
của Perkinsus olseni đều có thể gây bệnh cho
động vật thân mềm [3].
Ở Việt Nam, từ đầu năm 2003 cho đến
nay, hiện tượng động vật thân mềm hai mảnh
vỏ nói chung và nghêu nói riêng liên tục chết
hàng loạt trên diện rộng tại nhiều địa phương
nhưng chưa rõ nguyên nhân đang trở thành
vấn đề quan tâm của người nuôi, nhà khoa học
và nhà quản lý. Các nghiên cứu về bệnh trên
nghêu, đặc biệt là bệnh do P. olseni còn hạn
chế. Hầu hết các kết quả nghiên cứu mới dừng
lại ở mức độ mô tả sự hiện diện của ký sinh
trùng và đánh giá mức độ nhiễm của chúng
trên các đối tượng động vật thân mềm [1, 2].
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Số 3/2017
Những nghiên cứu về khả năng gây bệnh
và đường truyền lây của P. olseni hầu như
chưa được nhắc đến. Do đó, việc thử
nghiệm cảm nhiễm bào tử ký sinh trùng
P. olseni bằng phương pháp ngâm sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các nghiên cứu chuyên
sâu trong điều kiện thí nghiệm.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu nghiên cứu
Nghêu sạch bệnh có nguồn gốc từ huyện
Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu, kích cỡ từ 30 - 50mm
chiều dài. Sau thời gian thuần dưỡng từ 3 - 4
ngày, 20% số lượng cá thể được thu để phân
tích tỷ lệ và cường độ nhiễm Perkinsus olseni
theo phương pháp của Ray (1952). Quần thể
sạch bệnh đạt yêu cầu để thí nghiệm khi có
cường độ nhiễm P. olseni là 0 bào tử/cá thể và
tỷ lệ nhiễm là 0%.
Các cá thể thí nghiệm được cho ăn hỗn
hợp tảo Nannochloropsis oculata và Isochrysis
galbana với tỷ lệ 1 : 1 về thể tích. Tần suất cho
ăn là 2 - 3 lần/ngày với mật độ tảo là 7 - 10 x 105
tế bào/mL.
Bào tử nghỉ P. olseni được chuẩn bị theo
phương pháp của Shimokawa ...