T
Bên cạnh các yếu tố như tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời (gây nám), gió mùa (khô da), nhiệt độ nóng bức (bỏng và nám) và bụi bặm, nước sinh hoạt bị ô nhiễm gây ra (viêm và gây mụn) cũng như các chứng bệnh bị rối loạn nội tiết, tiêu hóa (táo bón, viêm dạ dày...), viêm gan, nhiễm độc tố, sử dụng kháng sinh lâu ngày...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thủ phạm gây tai biến trong mỹ phẩm
Thủ phạm gây tai biến
trong mỹ phẩm
Bên cạnh các yếu tố như tia tử ngoại trong ánh nắng mặt trời (gây nám), gió
mùa (khô da), nhiệt độ nóng bức (bỏng và nám) và bụi bặm, nước sinh hoạt
bị ô nhiễm gây ra (viêm và gây mụn) cũng như các chứng bệnh bị rối loạn
nội tiết, tiêu hóa (táo bón, viêm dạ dày...), viêm gan, nhiễm độc tố, sử dụng
kháng sinh lâu ngày...
1. Nguyên liệu làm mỹ phẩm chứa hàm lượng độc tố quá cao mà tế bào
da không thể dung nạp
Hầu hết các loại mỹ phẩm chăm sóc da hay làm đẹp (tạo dáng) đều chứa
đựng từ 15-20 loại hóa chất khác nhau và các loại nguyên liệu này đều có
chứa các loại kim loại nặng không tan, dễ tích tụ ở màng dịch tế bào (thủy
ngân, chì, kẽm, cyanure). Ngay như glycérine, một hóa chất cơ bản nhất
được sử dụng khá phổ biến trong ngành mỹ phẩm cũng có khoảng 10 chủng
loại với độ tinh khiết từ 96% đến 99,9%, nếu là glycérine đi từ công nghệ
hóa dầu giá chỉ bằng 1/5-1/7 giá glycérine trích ly từ dầu dừa hay dầu cọ.
Nếu loại 96% chỉ vào khoảng 345 USD/tấn thì loại 99% dùng trong mỹ
phẩm hay hóa dược (từ thiên nhiên) có giá lên đến 1.800-2.600 USD/tấn.
Glycérine, acid stéarique đi từ công nghệ hóa dầu chứa rất nhiều tạp chất, vì
vậy sử dụng loại nguyên liệu này sẽ giảm được giá thành nhưng chắc chắn
không tránh khỏi việc gây tai biến cho người tiêu dùng. Trường hợp phấn
trang điểm, phấn nụ hay son môi cũng tương tự; bột talc, bột màu có hàm
lượng độc tố (chì) khá cao, hương liệu (alcohol, aldehyde) dễ gây dị ứng đặc
biệt là nám, loét lỡ cho da mặc dù lúc mới thoa cảm thấy đẹp và thơm
hơn.
2. Hoạt chất sử dụng trong mỹ phẩm gây tai biến
Ngoài nguyên liệu cơ bản để tạo nhũ cho kem hay tạo bọt bằng hoạt chất bề
mặt (surfactant) các nhà sản xuất thường pha thêm một số hoạt chất nhằm
mục đích mềm da hoặc trắng da như sáp làm mịn giả tạo, mật ong để lột
lớp tế bào sừng phủ trên biểu bì, hay các loại thuốc kháng khuẩn, tẩy da cực
mạnh như corticoid, hydroquinone làm cho da bị lột, dộp và có khi bị cháy
nám. Thậm chí còn có những loại kem dưỡng da pha thêm hoạt chất kháng
sinh hay các loại thuốc gây tê nhằm tạo hiệu quả làm đẹp nhanh chóng. Từ
những năm 1970, để tránh tai biến và các phản ứng của kháng thể, các nhà
sản xuất tiên tiến đều cố gắng trở về với những hoạt chất đi từ thiên nhiên,
dược thảo hay các loại vitamine từ công nghệ sinh học, có độ thẩm thấu tốt
dễ tương hợp với tế bào, đồng thời hạn chế được kích thích da (tránh gây
kháng thể để chống lại - sốc phản vệ).
3. Quy trình công nghệ không đảm bảo vệ sinh, an toàn - bị nhiễm
khuẩn và nấm mốc
Nhà sản xuất mỹ phẩm Pola nổi tiếng ở Nhật Bản đã nói rằng không gì dễ
bằng làm kem mà khó nhất cũng là nghề này khi ông mô tả bước đầu tiên
trong nghề sản xuất mỹ phẩm. Pola đã đi từ một chiếc máy xay trái cây để
gây phản ứng nhủ hóa cho kem ở trong bếp. Tất nhiên Pola không thể thành
công bằng lối này và khám phá ra rằng tất cả đều theo đúng công thức
nhưng kem vẫn chua và dễ thối. Quy trình công nghệ sản xuất mỹ phẩm
khá nghiêm khắc, không dừng lại ở cân, đo, đong, đếm chính xác mà còn
kiểm tra vi khuẩn vi sinh, áp suất, nhiệt độ và thời gian chặt chẽ ở phòng bào
chế. Rất nhiều loại kem bị nấm mốc và nhiễm khuẩn trong sản xuất cũng
như trong quá trình sử dụng của khách hàng (do tay thoa kem từ lọ bị cáu
bẩn...) và gây úng, vữa hoặc thối, lớp dầu mỡ và nước trong kem bị phân ly,
không thể tiếp tục sử dụng.
4. Làn da mẫn cảm không thích nghi được với chất lạ (tính miễn dịch
của tế bào)
Có người có làn da không tương hợp (hay thích nghi) được với các chất lạ
(hóa chất) trong mỹ phẩm, dễ bị dị ứng (mẩn đỏ, khó chịu, ngứa ngáy) đối
với bất cứ loại kem nào. Chính vì vậy các nhà sản xuất đúng đắn đều phải
thử dị ứng trước khi tung hàng của mình ra thị trường, đồng thời ghi rõ sản
phẩm đã được thử dị ứng hay không gây dị ứng và kèm theo lời khuyên
ngừng ngay việc sử dụng khi cảm thấy khó chịu.
Ở những nước phát triển, cơ quan cấp giấy phép sản xuất (Bộ Y tế) đều buộc
các nhà sản xuất cung cấp tư liệu đầy đủ về nguyên liệu và hoạt chất sử
dụng, có nơi còn quy định ràng buộc cả hàm lượng lẫn kết quả thực chứng
về lâm sàng như trường hợp AHA (Alpha Hydroxy Acid - acid trích ly từ
trái cây, một hoạt chất sinh học tẩy da phổ biến) không được quá 2% để
tránh gây tai biến. Tổng cục quản lý chất lượng Thực phẩm và Dược phẩm
của Hoa Kỳ (FDA) còn buộc các nhà sản xuất phải báo cáo kết quả phân tích
nguyên liệu sử dụng, ngăn chặn việc làm hàng dỏm bằng những nguyên
liệu không đạt yêu cầu nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng đến mức cao
nhất. Đứng về phía người tiêu dùng, nên chọn kỹ và yêu cầu người bán mỹ
phẩm phải thử ngay trên da mình trước khi chọn mua một sản phẩm nào đó
và kiểm tra thời hạn sử dụng cũng như giấy phép (visa) kiểm nghiệm của Bộ
Y tế nhằm tránh được nạn tiền mất tật mang và chữa chạy tốn kém. Không
nên nghe lời đồn đại, giới thiệu ngọt ngào bằng những thủ pháp tiếp thị tinh
vi của thương nhân khi chọn mỹ phẩm cho mình, hãy cảnh giác với những
mặt hà ...