Danh mục

Thử tìm một cơ hội phát triển

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 138.98 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thử tìm một cơ hội phát triển Liệu nguy cơ có trở thành thời cơ để phát triển vươn lên... và làm cách nào để biến nguy cơ thành thời cơ? DNSGCT xin giới thiệu loạt bài viết Kinh nghiệm quanh ta của hai tác giả Phan Chánh Dưỡng và Trần Sĩ Chương đề cập đến vấn đề này. Nguy cơ là một từ chỉ trạng thái nguy ngập có thể đưa đến diệt vong hay chấm dứt một trạng thái đã ổn định, để chuyển qua một trạng thái mới, một tiến trình mới của một sự vật. Đối với...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thử tìm một cơ hội phát triển Thử tìm một cơ hội phát triển Liệu nguy cơ có trở thành thời cơ để phát triển vươn lên... và làm cách nào để biến nguy cơ thành thời cơ? DNSGCT xin giới thiệu loạt bài viết Kinh nghiệm quanh ta của hai tác giả Phan Chánh Dưỡng và Trần Sĩ Chương đề cập đến vấn đề này. Nguy cơ là một từ chỉ trạng thái nguy ngập có thể đưa đến diệt vong hay chấm dứt một trạng thái đã ổn định, để chuyển qua một trạng thái mới, một tiến trình mới của một sự vật. Đối với từ Hán Việt, từ “nguy cơ” còn ẩn chứa một triết lý là trong cái nguy còn chứa một thời cơ bắt nguồn từ tư tưởng của Dịch học. Đó là “cùng tất biến, biến tất thông”. Nếu biết biến nguy cơ trở thành thời cơ thì tận cùng của khó khăn sẻ mở ra cho ta một con đường mới bằng một trong hai hình thức đó là mạnh dạn vượt qua rào cản, làm một cuộc cải tổ từ cơ bản lột xác vươn lên (như cuộc Đổi mới 1986 của nước ta), hoặc là cứ để nguy cơ tiếp tục diễn tiến cuối cùng thì hủy thể để sinh ra thể mới. Đương nhiên ai trong chúng ta đều muốn chọn thái độ tích cực của tình huống thứ nhất. Từ khi Đổi mới, nền kinh tế của ta đã bắt đầu hướng ngoại, ngày càng hội nhập vào thị trường thế giới. Giá trị xuất khẩu của năm 2007 (khoảng 48 tỉ USD) trên 50% của GDP. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đăng ký tính đến tháng 10-2008 đã đạt con số hơn 59 tỉ USD. Với những tỷ lệ này thì rõ ràng kinh tế nước ta đã “mở”. Và đã mở thì chuyện người ta cũng trở thành chuyện của mình. Người ta làm ăn tốt thì mình được hưởng lây, người ta bị suy thoái thì chắc chắn mình cũng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Nền kinh tế toàn cầu đang lâm vào khủng hoảng, ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Đầu tuần này, Nhật Bản đã chính thức nhìn nhận là họ đã đi vào giai đoạn suy thoái, mặc dù tình hình tài chính và tín dụng của Nhật đã được đánh giá rất cao. Các ngân hàng hàng đầu của Nhật đã mạnh dạn mua lại một số thị phần của các công ty tài chính hàng đầu của Mỹ như Goldman Sachs và Morgan Stanley cách đây chỉ mấy tuần. Riêng với Trung Quốc, một nước chưa mở cửa thị trường tài chính như các nước đã phát triển, đồng nhân dân tệ chưa tự do hoán đổi, lại có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới (gần 2.000 tỉ USD), dù ít bị ảnh hưởng trực tiếp nhưng do nền kinh tế lệ thuộc xuất khẩu, hàng chục ngàn xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đang mất thị trường, tình trạng phá sản đang diễn ra, công nhân mất việc đổ về nông thôn, tình cảnh vô cùng khó khăn. Nhận thức được thực tế bi đát trước mắt, Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng quyết định chi ra 40.000 tỉ nhân dân tệ (tương đương 685 tỉ USD) để đầu tư vào 10 lĩnh vực kinh tế xã hội trong đó gồm xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sắt, đường xa lộ cao tốc, sân bay, bến cảng, thực hiện các chương trình cải thiện môi trường, đẩy nhanh tái thiết các nơi bị thiên tai, thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội nhằm tăng thu nhập và tăng phúc lợi cho nông dân, nông thôn... Đây là một số tiền đầu tư rất lớn đối với Trung Quốc, tương đương với 2/3 GDP và 1/3 quỹ dự trữ ngoại tệ. Trong nghĩa tương đối tỷ lệ GDP của hai nước, thì Việt Nam cũng phải chi khoảng 50 tỉ USD, gấp 2,5 lần lượng dự trữ ngoại tệ của mình. Như vậy, nếu so sánh với cách xử lý của Trung Quốc, thì Việt Nam có hai vấn đề: (1) Chúng ta không có 50 tỉ USD, và (2) chưa có một đánh giá thực tế, khách quan và một kế hoạch chủ động cho tình thế xấu nhất có thể xảy ra trong vòng một vài tháng tới. Tuần trước, công ty hàng đầu về đánh giá độ khả tín tài chính Standard and Poor’s (S&P) cho biết rủi ro tín dụng của Việt Nam đang ở mức cao nhất ở châu Á, chỉ trên Pakistan (một nước đang phá sản) và Sri Lanka, sau cả Mông Cổ và Philippines. Cuối năm nay, khi các khoản nợ xấu của ngân hàng bị siết lại, hoặc ít nhất được xếp loại lại thì có khả năng gây ra một loạt hậu quả dây chuyền, đưa cả nền kinh tế vào trọng tâm của vòng xoáy suy thoái. Đứng trước một viễn cảnh như vậy thì chúng ta phải đối phó ra sao? Không thể áp dụng biện pháp kinh điển Tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong hơn hai mươi năm qua nếu so với thời kỳ bao cấp thì quả là một bước phát triển dài. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa chưa thành hình vững chắc. Lao động trong khu vực nông nghiệp còn trên 60%, trong khu vực công nghiệp phần lớn là lao động giản đơn hay kỹ thuật thấp. Những ngành công nghệ cao như điện tử, sản phẩm phần mềm vi tính v.v… chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu xuất khẩu. Khi có một vài tập đoàn lớn đầu tư với quy mô lớn cần nhiều lao động có kỹ thuật thì chúng ta không thể đáp ứng được yêu cầu. Điều tệ hại là sản phẩm sản xuất ra thường có giá thành cao, không thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong đó nguyên nhân chính là chi phí phi kinh tế trong cơ cấu giá sản phẩm quá cao, điều này nói lên cơ chế quản lý kinh tế cũng như quản lý hành chính trở thành lực cản, áp lực lên giá thành sản phẩm. Tính cạnh tranh của Việt Nam theo đánh giá của các định chế quốc tế là giậm chân tại chỗ trong năm năm qua, loanh quanh ở mức 70 trong trên dưới 100 nước được khảo sát. Chúng ta cũng chưa hình thành được chuỗi sản xuất giá trị gia tăng từ khâu nguyên liệu ban đầu đến khâu sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cuối cùng. Do đó doanh số thì tăng (do đầu tư tăng), nhưng hiệu quả kinh tế thì kém. Hệ quả là trong suốt mấy chục năm qua ta thường nhập siêu, không đủ sức chống đỡ những cuộc khủng hoảng tài chính gây ra từ bên trong lẫn bên ngoài. Với thực trạng cơ cấu kinh tế trong nước như vậy, những giải pháp vĩ mô kinh điển có xác suất thành công rất thấp và còn có thể gây tác dụng phụ rất tiêu cực. Chẳng hạn như biện pháp giảm lãi suất. Trong khi mức lãi suất còn quá cao so với cơ hội đầu tư kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp không dám vay còn ngân hàng cũng không mạnh dạn cho vay do tình hình tài chính của doanh nghiệp đi vay đ ...

Tài liệu được xem nhiều: