Danh mục

Thực trạng vụ tranh chấp liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng trong một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc

Số trang: 5      Loại file: docx      Dung lượng: 18.91 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngày 20 tháng 3 năm 2000, Nguyên đơn (Người mua Việt Nam) do ôngPhó giám đốc làm đại diện đã ký với Bị đơn (Người bán Hàn Quốc) hợp đồng sốKRE-VN 05-2000 để mua hai loại vải “Polyhide PVC Casting Leather” với tổngtrị giá hợp đồng là 42.365,8 USD.Vào giữa tháng 5 năm 2000, Nguyên đơn nhận được hàng. Tuy nhiên, khikiểm tra chất lượng loại vải PVC, Nguyên đơn phát hiện hàng không đạt chấtlượng giống như mẫu Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn khi ký hợp đồng. Do Bịđơn không chấp nhận mình giao hàng kém phẩm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực trạng vụ tranh chấp liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng trong một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam và Hàn QuốcThực trạng vụ tranh chấp liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng trong một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc Ngày 20 tháng 3 năm 2000, Nguyên đơn (Người mua Việt Nam) do ôngPhó giám đốc làm đại diện đã ký với Bị đơn (Người bán Hàn Quốc) hợp đồng sốKRE-VN 05-2000 để mua hai loại vải “Polyhide PVC Casting Leather” với tổngtrị giá hợp đồng là 42.365,8 USD. Vào giữa tháng 5 năm 2000, Nguyên đơn nhận được hàng. Tuy nhiên, khikiểm tra chất lượng loại vải PVC, Nguyên đơn phát hiện hàng không đ ạt chấtlượng giống như mẫu Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn khi ký hợp đồng. Do Bịđơn không chấp nhận mình giao hàng kém phẩm chất nên Nguyên đơn đã khởikiện Bị đơn ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam yêu cầu Bị đơn bồi thường. Tuy nhiên, khi giải trình trước Ủy ban trọng tài, Bị đơn cho rằng hợp đồngbị vô hiệu toàn bộ vì nguời đại diện cho Nguyên đơn để ký hợp đồng là Phógiám đốc nhưng không có sự ủy quyền của Giám đốc. Bị đơn đã dẫn chiếu đ ếncác điều 8, điều 9 của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, điều 102 Bộ luậtdân sự Việt Nam năm 1995 và điều 5, điều 6 Nghị định số 17/HĐBT ngày16/01/1990 để lập luận cho quan điểm của mình. Sau khi nhận được bản giảitrình của Bị đơn, Ủy ban trọng tài đã gửi cho Nguyên đơn và đề nghị Nguyên đơncung cấp giấy ủy quyền cho người đại diện ký kết hợp đồng với Bị đơn. Đếnngày 12/04/2001, Nguyên đơn gửi cho Ủy ban trọng tài giấy ủy quyền. Tuy nhiên,sau khi nhận đựoc giấy ủy quyền của Nguyên đơn gửi Ủy ban trọng tài, ngày 28tháng 4 năm 2001, trong văn thư gửii Ủy ban trọng tài, Bị đơn không thừa nhậngiá trị pháp lý của Giấy ủy quyền số 6461/VCN-UQ ngày 2 tháng 1 năm 2000 doông Giám đốc của Nguyên đơn ủy quyền cho ông Phó giám đốc thực hiệnthương vụ này với những lý do sau đây: Ngày 2 tháng 1 năm 2000 là ngày chủ nhật - Giấy ủy quyền làm vào ngày đầu năm nhưng số công văn quá lớn - Bị đơn hoàn toàn không biết gì về việc ủy quyền này - Theo điều 589 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 quy định thì người - đựơc ủy quyền phải báo cho người thứu ba tức là công ty Hàn Quốc về việc này. Tuy nhiên, cũng rất may cho bên Nguyên đơn là Ủy ban trọng tài đã bác lậpluận của Bị đơn cho rằng hợp đồng vô hiệu vì Ủy ban trọng tài cho rằng điều589 của Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 điều chỉnh những quan hệ liên quanđến hợp đồng ủy quyền, một loại quan hệ pháp luật có nội dung khác với việcủy quyền của Nguyên đơn trong việc ký hợp đồng này. Ủy ban trọng tài khẳng định rang, liên quan đến giấy ủy quyền số6461/VCN-UQ ngày 2 tháng 1 năm 2000 là những quy định thuộc Chương VI củaBộ luật dân sự Việt Nam. Chiểu theo điều 151, điều 152 (khoản 1) và điều 153(khoản 2) của Bộ luật Dân sự Việt Nam thì Giấy ủy quyền này có hiệu lực pháplý, ngoài ra, căn cứ vào khoản 4 điều 153 Bộ luật Dân sự - chú không ph ải đi ều589 – người đại diện phải thông báo cho bên thứ ba biết về phạm vi thẩm quyềnđại diện của mình. Tuy nhiên, điều 154 (khoản 2) của Bộ luật dân sự lại quyđịnh rằng: “người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện, cóquyền đơn phương đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lậpvà yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết, hoặc phải biếtvề việc không có thẩm quyền đại điện mà vẫn giao dịch ”. Áp dụng điều 152(khoản 2) cho vụ kiện này, có thể thấy rõ rằng, nếu khi ký hợp đồng, thầm chísau khi hợp đồng đã được ký kết, Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn xuất trình giấy ủyquyền mà Nguyên đơn không xuất trình được thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu hoàntoàn và Bị đơn có quyền yêu cầu Nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Nhưng thựctế, trong cả quá trình thực hiện hợp đồng, Bị đơn không làm như vậy mà ngượclại, Bị đơn vẫn giao đủ hàng, vẫn nhận đủ tiền. Từ đó, có thể suy đoán theo haikhả năng: Thứ nhất: Bị đơn biết và phải biết rằng người ký kết với mình-ông Phógiám đốc không có thẩm quyền mà vẫn giao dịch thương vụ. Thứ hai: Bị đơn biết rõ ông Phó giám đốc có đủ thẩm quyền giao dịch vớimình (vì trong thực tế, cũng như qua thư từ giao dịch giữa hai bên và sự trả lờicủa Nguyên đơn và Bị đơn trước các câu hỏi của Ủy ban trọng tài tại phiên xétxử, hai bên đã có mối quen biết và đã từng thực hiện một số thương vụ tương tựvới nhau) nhưng chủ quan không kiểm tra Giấy ủy quyền. Khi tranh chấp xảy ra,Bị đơn bác lại tư cách của người ký kết hợp đồng. Dù suy đoán theo khả năng nào thì lập luận của Bị đơn về việc khôngthừa nhận giá trị pháp lý của giấy ủy quyền số 6461/VCN-UQ ngày 2 tháng 1năm 2000, để từ đó phủ nhận hiệu lực của hợp đồng số KRE-VN 05-2000 làkhông có cơ sở và không có sức thuyết phục. Vì vậy cơ quan trọng tài bác bỏ lậpluận của Bị đơn và khẳng định hợp đồng số KRE-VN 05-2000 được ký kết giữaNguyên đơn và Bị đơn ngày 20 tháng 3 năm 2000 có hiệu lực pháp lý. Đây là bài học rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp khi tham gia ký kếthợp đồng thương mại quốc tế vì dù Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 đã hếthiệu lực vì nếu xem xét vụ việc theo những quy định mới của Bộ luật dân s ựViệt Nam năm 2005 thì phán quyết của trọng tài vẫn có giá tr ị và phù h ợp v ớiluật pháp. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định người được ủy quyền cónghĩa vụ báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn,phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền theo điều 584/Khoản 2. Mặc dù về nguyên tắc, ông Phó giám đốc có thể không thông báo chocông ty Hàn Quốc về việc này nhưng công ty Hàn Quốc cũng không yêu cầu Phógiám đốc công ty Việt Nam phải xuất trình, cho nên có thể thấy công ty HànQuốc thừa nhận tư cách pháp lý của người ký hợp động Việt Nam. Thực tế làkhông có bằng chứng gì cho thấy giấy ủy quyền của Nguyên đơn Việt Namkhông có giá trị. ...

Tài liệu được xem nhiều: