Cứ đến mùa thi, nhiều bậc phụ huynh lại tìm đến với các loại thuốc bổ mà họ cho là có tác dụng cải thiện trí nhớ, tăng khả năng nhận thức, củng cố trí thông minh, nhạy bén hóa khả năng tư duy để mua về cho con em mình dùng. Vậy thực chất tác dụng của các loại thuốc này như thế nào? Chúng có thực sự đáp ứng được mong mỏi của người dùng hay không?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc bổ cho sĩ tử và những lưu ý khi sử dụngThuốc bổ cho sĩ tử và những lưu ý khi sử dụngCứ đến mùa thi, nhiều bậc phụ huynh lại tìm đến với các loại thuốc bổ mà họ cho làcó tác dụng cải thiện trí nhớ, tăng khả năng nhận thức, củng cố trí thông minh,nhạy bén hóa khả năng tư duy để mua về cho con em mình dùng. Vậy thực chất tácdụng của các loại thuốc này như thế nào? Chúng có thực sự đáp ứng được mongmỏi của người dùng hay không? Không ít sĩ tử rối loạn tâm thần khi dùng thuốc tăng cường trí nhớ.Không dùng thuốc không an tâmMặc dù sức học của cậu con trai út không thuộc loại xoàng nhưng ông Nguyễn VănHùng, 49 tuổi, ở Hưng Yên vẫn thấy lo lo. Năm ngoái, chính ông tận mắt thấy nhiều sĩ tửhọc hành loại khá mà vẫn “oạch” như chơi. Thế nên ông rất lo cậu út thuộc diện “nhỡ ra”đó.Lại do vấn đề tâm lý nên bài thi thử của cậu quý tử không thuộc “chóp đỉnh”. Cậu sĩ tửcuối cấp đã quên mất một ý nhỏ trong kiến thức cũ mà không tài nào nhớ được cách làmlà gì. Và kết quả là điểm bài thi của cậu út không được như ông mong muốn. Điều nàycàng làm ông thấy bất an. Và ông tìm mọi cách làm cho con ông thành thông thái cấpbách.Nghe theo nhiều lời mách, cứ thấy thuốc nào bổ cho não, tăng cường trí nhớ là ông muavề cho con uống. Khi con uống những viên thuốc bổ não này vào, ông cũng cảm thấy yêntâm phần nào… Tâm lý mong chờ vào sự trợ giúp của thuốc bổ không chỉ là riêng ôngHùng mà còn là tâm lý chung của nhiều bậc phụ huynh có con em trong giai đoạn ôn thivào các trường đại học, cao đẳng…Tác dụng thực của các loại thuốc bổ… nãoHiện nay, có nhiều loại thuốc bổ đang được coi là có tác dụng trên hệ thần kinh. Phần nàocác thuốc này giúp cho hệ thần kinh có thể đạt được sự minh mẫn và chúng được gọi làcác thuốc thông minh. Sở dĩ như vậy vì người ta cho rằng chúng có tác dụng cải thiện trínhớ, tăng khả năng nhận thức, củng cố trí thông minh, nhạy bén hóa khả năng tư duy. Tấtcả chúng đều là những thuốc không đặc hiệu.Nhóm thứ nhất là các chất dinh dưỡng như vitamin B, omega 3, DHA. Vitamin nhóm Bcó tác dụng làm gia tăng quá trình methyl hóa, làm tăng khả năng hoạt hóa các synapthần kinh. Các vitamin nhóm B cũng được cho là có tác dụng làm giảm nồng độhomocystein, một chất làm cản trở quá trình nhớ. Người ta cũng giải thích là vitamin Blàm tăng khả năng dẫn truyền thần kinh do tác động vào bao Schwan nên chúng có tácdụng trên khả năng tư duy. Song đó chỉ là tác dụng trên những đối tượng bị rối loạn thầnkinh nặng như viêm đa dây thần kinh, tê phù. Omega 3 là một axit béo có chủ yếu ởmàng tế bào thần kinh do đó là một chất dinh dưỡng cần thiết cho não bộ phát triển, nhấtlà trẻ em.Nhóm thứ hai là các thuốc thuộc nhóm racetam như piracetam, aniracetam, nebracetam,fasoracetam, imuracetam… Chúng có một số tác dụng chung là làm tăng nồng độ cácchất trung gian thần kinh như acetylcholin, tăng hoạt hóa thần kinh, tăng chuyển hóatrong tế bào thần kinh nên có vẻ như nó làm cải thiện hoạt động trí tuệ. Thực tế nhữngthuốc này có ý nghĩa với những người bị các rối loạn thần kinh do mạch máu.Nhóm thứ ba là các thuốc của nhóm chất kích thích thần kinh. Những thuốc này có tácdụng làm tăng nồng độ các chất trung gian thần kinh, làm cường chức năng các thụ cảmthể alpha trung ương, do đó là tăng khả năng tỉnh táo và giúp chúng ta học được. Nhữngthuốc này không trực tiếp tác động vào hoạt động tư duy mà chỉ tạo điều kiện cho hoạtđộng ấy diễn ra mà thôi. Ví dụ của nhóm này như atomoxetine, reboxetine, synephrine,arecoline, nicotine, caphein, adrafinil, armodafinil, modafinil… Chẳng cần phải diễn giảinhiều, những người hay phải suy nghĩ, làm việc đêm thường nghiện thuốc lá vì họ cầnthuốc lá để thức tỉnh, một thứ có nhiều nicotin. Song vì tác động lên các thụ cảm thể cócả ở thành mạch nên chúng cũng là nhóm có nhiều tác dụng phụ nhất.Nhóm thứ tư là các thuốc được coi là cải thiện trí nhớ, nhất là ở những người bị bệnh sasút trí tuệ, mất trí nhớ nghiêm trọng. Những thuốc này đều có chung một mục đích là làmtăng nồng độ acetylcholin, chất trung gian dẫn truyền ở não bộ. Nhưng mỗi một loạithuốc lại có cách thực hiện không giống nhau. Ví dụ như cholin là tiền thân củaacetylcholin, acetylcarnitine lại là thuốc cộng hưởng đồng tác dụng, galantamine (biệtdược là reminyl) lại ức chế men phân hủy acetylcholin trên thần kinh nên gián tiếp làmtăng nồng độ chất trung gian hóa học này. Các thuốc trên đều là các thuốc được chỉ địnhđiều trị ở bệnh nhân Alzheimer.Các thuốc làm thay đổi lưu lượng máu não và làm thay đổi chuyển hóa của các tế bào nãobộ. Những thuốc này đặc biệt có tác dụng với những người bị chứng thoái hóa, xơ cứngmạch, cao tuổi, nhồi máu, chảy máu não. Vì chúng làm động mạch giãn ra đáng kể trongtình trạng đang bị hẹp do co thắt, bị chèn ép. Chúng cũng được coi là những thuốc bổthần kinh hay được dùng trong mùa ôn thi. Có thể lấy ví dụ như picamilon, gingko,vinpocetin (cavinton, enopocetin, vincat ...