Thông tin tài liệu:
Khi ta dùng thuốc, tức là đưa những chất hóa học vào cơ thể. Cơ thể có thể chấp nhận những chất đó với phản ứng bình thường, không ảnh hưởng đến các quá trình sinh học khác của hoạt động sống. Nhưng đôi khi, những chất hóa học trong các thuốc gây ra các phản ứng quá mẫn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động khác của cơ thể. Đó là tình trạng dị ứng thuốc. Các phản ứng âm thầm hoặc rầm rộ sau khi đưa thuốc vào cơ thể (đôi khi chỉ mới tiếp xúc với...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc chữa dị ứng... thuốc Thuốc chữa dị ứng... thuốc Những chất hóa học trong thuốc có thể gây ra tình trạng dị ứng thuốc. Khi ta dùng thuốc, tức là đưa những chất hóa học vào cơ thể. Cơ thể cóthể chấp nhận những chất đó với phản ứng bình thường, không ảnh hưởngđến các quá trình sinh học khác của hoạt động sống. Nhưng đôi khi, nhữngchất hóa học trong các thuốc gây ra các phản ứng quá mẫn, ảnh hưởngnghiêm trọng đến hoạt động khác của cơ thể. Đó là tình trạng dị ứng thuốc. Các phản ứng âm thầm hoặc rầm rộ sau khi đưa thuốc vào cơ thể (đôi khichỉ mới tiếp xúc với thuốc) có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe ngườidùng thuốc hoặc gây tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Trước tình hình thị trường thuốc nhập ngoại cũng như thuốc sản xuất trongnước ngày càng đa dạng, việc sử dụng thuốc không được quản lý chặt chẽ đã đưađến tình trạng dị ứng thuốc gia tăng. Nhiều trường hợp dị ứng thuốc rất nặng, phảiđiều trị lâu dài rất tốn kém mà bệnh nhân vẫn không hồi phục hoặc để lại di chứngnặng nề. Số ca tử vong do dị ứng thuốc ngày càng nhiều. Dùng thuốc khi bị dị ứng thuốc chỉ là một trong nhiều biện pháp hỗ trợ đểđưa bệnh nhân về trạng thái bình thường. Trong nhiều trường hợp, không phảidùng bất cứ một loại thuốc nào mà chỉ cần dừng ngay loại thuốc đang dùng, đểbệnh nhân nghỉ ngơi thì tình trạng dị ứng thuốc sẽ hết. Hơn nữa, bản thân cácthuốc dùng để chống dị ứng cũng có thể gây dị ứng cho bệnh nhân. Vì vậy, sửdụng thuốc khi bị dị ứng cần hết sức thận trọng. Trong nhiều trường hợp cấp cứu,các thuốc dùng chống dị ứng cần phải tuân theo các phác đồ điều trị được quản lýchặt chẽ mới có hiệu quả. Một số thuốc chống dị ứng mạnh là các thuốc độc bảngA-B chỉ được sử dụng khi có chỉ định của thầy thuốc và phải cân nhắc liều lượngthích hợp đối với từng bệnh nhân. Adrenalin và nor-adrenalin được sử dụng ngay khi bị sốc phản vệ, phùmạch, hồi sức tim mạch. Đây là thuốc cấp cứu rất cần thiết có tác dụng kích thíchhạch giao cảm. Trong đó adrenalin vừa có tác dụng kích thích hoạt động của timvừa gây co mạch còn nor-adrenalin thì chỉ có tác dụng chủ yếu trên mạch máu gâyco mạch. Các corticoid: là nhóm thuốc hay được sử dụng nhất do có tác dụng ức chếcác phản ứng miễn dịch. Trong trường hợp sốc phản vệ (một dạng dị ứng thuốc rấtnặng) corticoid là thuốc bắt buộc phải dùng. Tiêm càng sớm càng tốt ngay sau khiđã tiêm adrenalin (epinephrin) là thuốc kích thích hạch giao cảm gây co mạch vàkích thích hoạt động của tim. Corticoid còn có tác dụng chống viêm mạnh cho nênrất cần cho các trường hợp dị ứng thuốc mà cơ thể phản ứng mạnh như phù thanhquản gây tắc nghẽn đường thở. Corticoid hay dùng là dạng hydrocortison dạngmuối natri succinat tiêm tĩnh mạch. Ngoài ra còn hay dùng các thuốc tiêm nhómcorticoid rất phổ biến trên thị trường là methylprednisolon (solumedrol) vàmazipredon (depersolon). Đây là hai loại thuốc luôn luôn phải có trong cơ sốthuốc cấp cứu sốc phản vệ của tất cả các cơ sở y tế. Với những trường hợp dị ứngvừa và nhẹ, có thể cho dùng corticoid dạng uống như prednisolon hoặcmethylprednisolon (medrol). Trong điều trị dị ứng nhẹ hoặc hen suyễn người tadùng các corticoid dạng khí dung như beclomethasone (becotid) hoặc budesonid(pulmicort) vì trạng thái dị ứng mạn tính của những người bị bệnh này. Các thuốc kháng histamin H1 rất hay được sử dụng trong các trạng thái dịứng nhẹ của cơ thể với các biểu hiện như sổ mũi, nổi ban đỏ, viêm mô liên kết.Tác dụng của các thuốc nhóm này chỉ làm kìm hãm sự sản sinh ra histamin, là mộtloại chất trung gian sinh ra tại các tổ chức trong cơ thể trong quá trình dị ứngthuốc. Đây là thuốc rất hay dùng khi bị dị ứng thuốc với các triệu chứng như viêmmao mạch, viêm da biểu bì, viêm da do tiếp xúc, các bệnh mày đay, phù nề... Các thuốc kháng histamin H1hiện nay có 2 thế hệ: - Thế hệ 1 bao gồm một sốthuốc hay dùng như diphenhydramin(dimedrol); dimenhydrinat (vomina);chlopheniramin (rất hay được phối hợptrong các thuốc trị cảm cúm nhưdecolgen, rhumenol...); promethazin Tổn thương da do dị ứng thuốc.(phenergan, pipolphen). Các thuốckháng histamin thế hệ 1 có thể sử dụng để điều trị dự phòng khi sử dụng mộtthuốc mà biết trước là sẽ giải phóng ra histamin gây dị ứng quá mẫn. Nhìn chungcác thuốc kháng histamin thế hệ 1 đều có tác dụng an thần và gây buồn ngủ. Trongsố đó có chất cyproheptadin HCl dạng viên nén 4mg (tên khác là peritol) thườngđược dùng để điều trị một số tình trạng chán ăn ở người bệnh không chịu ăn uống.Các thuốc kháng histamin H1 còn được dùng làm thuốc chống say tàu xe nhưcinarizin (devomir, stugeron...). - Thế hệ 2 bao gồm một số hoạt chất hay dùng như astemizol (histalong)hay loratadin (clarityn). Các thuốc này ít qua được hàng rào máu não nên ít có tácdụng an thần. Các thuốc kháng histamin H2 như cimetidin, raniti ...