SƯNG, NÓNG, ĐỎ, ĐAU là bốn triệu chứng căn bản của hội chứng viêm do nhiều nguyên nhân mà Cornelius Celsus (30 trước CN - 38 sau CN) đã mô tả lần đầu tiên. Sau đó Galen (130 - 200 sau CN) bổ túc thêm dấu hiệu thứ năm là MẤT CHỨC NĂNG. Từ đó đến giờ, cơ chế viêm được nghiên cứu bổ túc và làm sáng tỏ nguyên nhân cũng như đưa ra các phương thuốc điều trị. Nói chung, viêm theo định nghĩa cổ điển, là “một tổng hợp các hiện tượng phản ứng xảy ra ở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc kháng viêm giảm đau Thuốc kháng viêm giảm đau SƯNG, NÓNG, ĐỎ, ĐAU là bốn triệu chứng căn bản của hội chứngviêm do nhiều nguyên nhân mà Cornelius Celsus (30 trước CN - 38 sau CN)đã mô tả lần đầu tiên. Sau đó Galen (130 - 200 sau CN) bổ túc thêm dấu hiệuthứ năm là MẤT CHỨC NĂNG. Từ đó đến giờ, cơ chế viêm được nghiên cứubổ túc và làm sáng tỏ nguyên nhân cũng như đưa ra các phương thuốc điềutrị. Nói chung, viêm theo định nghĩa cổ điển, là “một tổng hợp các hiện tượngphản ứng xảy ra ở điểm kích thích bởi một tác nhân gây bệnh”. Nguồn gốcgây viêm rất đa dạng: sinh học (vi khuẩn, ký sinh trùng, virus), vật lý (té trặc,bầm giập; vi tinh thể trong thống phong...) hay miễn dịch học (tự miễn dịchnhư trong thấp khớp, kháng nguyên, phức hợp miễn dịch)... Người ta có thểphân chia khái quát thành hai dạng viêm: viêm cấp tính (cơn thống phongcấp tính, cơn đau thắt ngực, sưng bầm do chấn thương hay nhiễm trùng...) vàviêm mạn tính (phần lớn các hình thức thấp khớp). Chính sự hiện diện củachất kích thích trong cơ thể đã giúp cơ thể tạo ra “một phản ứng viêm”, trongđó hai yếu tố chính được huy động: các tế bào của hệ miễn dịch và các dịchthể trung gian. Tuy nhiên phản ứng viêm thường xảy ra ở nhiều mức độ khácnhau tùy từng nguyên nhân mà các thử nghiệm cận lâm sàng hiện đại ngườita có thể biết rõ nguyên nhân và chỉ định điều trị thích hợp. Dù sao thì người ta cũng lưu ý rằng viêm là “một quá trình đang lành bệnh”nghĩa là do phản ứng tự vệ của cơ thể để chống lại yếu tố gây bệnh. Do đó trongmột chừng mực nào đó, người ta khuyên không dùng thuốc chống viêm trongnhững trường hợp viêm mạn tính mà phải dùng biện pháp vận động cùng với biệnpháp nâng đỡ cơ thể. Ta biết rằng sưng, nóng, đỏ, đau làm hạn chế chức năng vậnđộng. Nhưng nếu ta không tập vận động thì tình trạng viêm cứng khớp sẽ gia tăng.Vậy trong trường hợp này sẽ dùng thuốc kháng viêm, giảm đau, giảm sưng đểgiúp người bệnh qua được cơn đau hầu tiếp tục tập vận động phục hồi và chínhquá trình vận động này sẽ giúp khỏi bệnh. Chỉ có trên tinh thần đó người ta mớitránh được sự lạm dụng thuốc kháng viêm mà hậu quả rất bi đát, sẽ nói ở phầnsau. Về thuốc kháng viêm chúng ta có thể xếp thành các nhóm chính như: * Aspirin hay Acetylsalicylic acid và các dẫn xuất của nó. Được sử dụng rấtnhiều vì tác dụng giảm đau, giảm sưng và hạ nhiệt. Nó được đánh giá là thuốckháng viêm giảm đau hàng đầu, mặc dù nó cũng gây những tác dụng phụ ở bộphận tiêu hóa (viêm loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa) hay rối loạn máu huyết. Nóichung nếu dùng đúng liều lượng và có theo dõi chặt chẽ thì thuốc này vẫn còn cóích rất nhiều cho việc chống viêm. Ngày nay acetylsalicylic acid được trình bàydưới rất nhiều hình thức. Liều dùng thường 300 - 1.500 mg/ngày chia làm nhiềulần, uống khi bụng no. Không dùng quá 3 ngày và không cho trẻ nít dưới 1 tuổidùng. * Các corticoid và dẫn xuất của chúng, tạo trong cơ thể những tác dụnggiống như hormon do tuyến vỏ thượng thận tiết ra. Chúng là những phân tử tổnghợp với cấu trúc hơi thay đổi ít nhiều. Tác dụng kháng viêm của chúng được đánhgiá cao và cũng gây nhiều phản ứng phụ tỷ lệ thuận với sự hiệu nghiệm của chúng.Ngoài những rối loạn về chuyển hóa (giữ nước và muối khoáng gây nên tình trạngtăng cân, phù mặt, rạn da, tiêu cơ, mất kali, loãng xương...). Tai nạn ở hệ tiêu hóa,giảm sức đề kháng và đôi khi ảnh hưởng đến tâm thần (sảng khoái, mất ngủ, loạntâm thần). Điều cơ bản là người bệnh không nên tự dùng lại toa cũ, không dùngdài ngày các thuốc hạt dưa này. * Các kháng viêm không steroid, gồm nhiều chủng loại khác nhau, về mặthóa học chúng có cơ cấu khác nhau, nhưng chúng có một tác dụng dược lý giốngnhau là kháng viêm, giảm đau. Nhóm này gồm nhiều dược chất đến nỗi người tahay dùng cụm từ “rừng kháng viêm không steroid” và mỗi ngày lại có thêm thuốcmới gia nhập vào nhóm này. Paracetamol có tính giảm đau hạ nhiệt thuần túy nên không được xếp vàonhóm này, nhưng nó là thuốc thông dụng nhất và nên dùng nó trước khi dùng đếncác thuốc giảm đau khác. * Các thuốc giảm đau không steroid thường thấy như: Propyphenazon tác dụng kháng viêm, giảm đau, hạ nhiệt tốt và ít phản ứngphụ nên thường được dùng thay thế Phenylbutazon. Indomethacin, Ibuprofen, là 2 thuốc kháng viêm, giảm đau đầu tiên đượcchọn vì tương đối ít phản ứng phụ hơn các thuốc cùng nhóm. Naproxen, Ketoprofen, acid nefenamic, diclofenac... với vô số biệt dược(tên thương mại) làm cho nhóm này thêm phong phú nhưng cũng phức tạp. Các thuốc kháng viêm giảm đau không steroid này, do tác dụng trung hòachất prostaglandin (chất gây co thắt, gây đau, kể cả trong đau bụng kinh) nên gầnđây người ta cũng dùng chúng để làm giảm các đau bụng kinh tiên phát. (Khi cảmthấy bắt đầu có triệu chứng sắp đau bụng kinh, uống 1 viên lúc bụng no hoặc cùngvới ly sữa. Sáu ...