![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Thuốc trị bệnh nhiệt miệng
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 139.87 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Loét miệng aphthe (hay dân gian thường gọi là “nhiệt miệng”) là bệnh thường gặp. Tuy bệnh không nguy hiểm nhưng nó làm cho bệnh nhân đau đớn và ảnh hưởng đến sinh hoạt, ăn uống. Dù không thể chữa khỏi hẳn, việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh. Loét aphthe là một bệnh không lây truyền, thường gặp ở phía trong miệng. Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu có đề cập đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc trị bệnh nhiệt miệngThuốc trị bệnh nhiệt miệngLoét miệng aphthe (hay dân gian thường gọi là “nhiệt miệng”) là b ệnh thườnggặp. Tuy bệnh không nguy hiểm nhưng nó làm cho bệnh nhân đau đớn và ảnhhưởng đến sinh hoạt, ăn uống. Dù không thể chữa khỏi hẳn, việc điều trị vẫncó thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời giankhông bị bệnh.Loét aphthe là một bệnh không lây truyền, thường gặp ở phía trong miệng.Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ, tuy nhiên, các nhà nghiêncứu có đề cập đến vấn đề môi trường và di truyền, nhưng chưa được chứngminh. Ngoài ra, chấn thương miệng, rối loạn nội tiết do chu kỳ kinh nguyệt,stress, uống thuốc (bao gồm các thuốc kháng viêm như ibuprofen và cácthuốc beta-blocker như atenolol), dị ứng với thực phẩm (chocolat, cà chua,hạt dẻ, các loại thực phẩm có vị chua như dứa và các chất bảo quản thựcphẩm như benzoic acid và cinnamaldehyde), sử dụng kem đánh răng có chứasodium lauryl sulfate, thiếu sắt, folic acid, hoặc vitamin B12, một số bệnh ởđường tiêu hóa… cũng được coi là yếu tố nguy cơ gây bệnh. Ảnh minh họa (nguồn Internet)Điều trị loét aphtheDù không thể chữa khỏi hẳn nhưng việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớttriệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh. Cóthể sử dụng một số thuốc sau đây:Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương. Đã có những nghiên cứu ngẫu nhiênvề hiệu quả của thuốc. Thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thươngtổn trong vòng 3 – 5 ngày. Nhiều bệnh nhân không thích cảm giác nóngmiệng sau khi bôi thuốc nhưng rất hài lòng khi hết đau hoàn toàn sau vài giờ.Debacterol là phức hợp phenol sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tươngtự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảmgiác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 – 5 ngày. Thuốc bántheo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lầnmỗi ngày.Thuốc chỉ cung cấp theo toa bác sĩ nếu bệnh nhân chưa bớt sau khi sử dụngcác thuốc thông thường:Kem bôi có chứa triamcinolone acetonide: Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốtnhất là sau b ữa ăn chính và trước khi đi ngủ.Amlexanox (aphthasol): Bôi ngày 4 lần, sau khi ăn và trước lúc ngủ. Chưa cónhiều bằng chứng về khả năng nhanh chóng làm giảm đau và lành loét củathuốc.Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap)dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên,thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gâykích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.Gel lidocaine: Gel 2% lidocaine bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốcsau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.Dung dịch sucralfate (thường được dùng trong loét tiêu hóa): Còn ít nghiêncứu liên quan đ ến việc sử dụng sucralfate cho loét aphthe. Thường dùng bằngcách ngâm 1 viên thuốc vào 5-10ml (1-2 muỗng cà phê) nước. Bôi đều dungdịch lên niêm mạc miệng, để thuốc thấm vài phút rồi nhổ ra. Thực hiện 4 lầntrong ngày.Có thể dùng bổ sung nếu cơ thể người bệnh thiếu hụt folic acid, sắt hoặcvitamin B12. Cần uống nhiều tháng để tình trạng cải thiện.Chlorhexidine (cyteal, eludril): Dung dịch súc miệng sát khuẩn giúp maulành loét.Corticosteroid: Đối với trường hợp thật nặng, bác sĩ có thể xem xét cho dùngcorticosteroid đường uống sau khi cân nhắc giữa lợi ích và tác hại. Tác dụngphụ của thuốc bao gồm tăng cân, suy giảm miễn dịch, xương giòn dễ gãy,tăng tiết acid dẫn đến loét dạ dày…Thalidomide (thalomid): Trường hợp bị bệnh rất nặng, bác sĩ có thể xem xétdùng thalidomide. Tuy nhiên do gây ra nhiều tác dụng phụ, thuốc chỉ đượcFDA chấp thuận sử dụng cho loét aphthe nặng ở bệnh nhân HIV dương tính.Các thuốc có tiềm năng điều trị khác: Gồm các thuốc đã được dùng trongnhiều thử nghiệm như colchicine, pentoxifylline (trental), interferon,cimetidine (tagamet), clofazimine (lamprene), các tác nhân đối kháng TNF-a,infliximab (remicade), etanercept (enbrel), levamisole (ergamisol) vàdapsone. Một số thuốc trong danh sách dài trên đây khá đ ắt tiền, gây nhiềuphản ứng phụ nhưng lại chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt.Lưu ý:Đ ể loại trừ các bệnh khác có triệu chứng giống loét aphthe, bệnh nhân cần đikhám bệnh ngay nếu: đó là đợt phát bệnh đầu tiên và chưa chắc chắn về mặtchẩn đoán; đau ngày càng nhiều và không kiểm soát được; bệnh nhân có tiêuchảy (có thể người bệnh đ ã mắc một bệnh hệ thống như bệnh Crohn hoặcbệnh viêm loét đại tràng); có những ổ loét ở vị trí khác ngoài miệng (có thểbệnh nhân đã mắc một bệnh hệ thống như hội chứng Behcet hoặc một bệnhlây truyền qua đ ường tình dục); đối với các vết loét kéo dài trên 3 tuần.Làm gì để phòng bệnh?Nên tránh tất cả những nguyên nhân có thể gây chấn thương, dù rất nhẹ ởmiệng như dùng bàn chải đánh răng hoặc các loại thức ăn cứng; tránh stress;không dùng kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate nếu thường xuyênbị loét aph ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc trị bệnh nhiệt miệngThuốc trị bệnh nhiệt miệngLoét miệng aphthe (hay dân gian thường gọi là “nhiệt miệng”) là b ệnh thườnggặp. Tuy bệnh không nguy hiểm nhưng nó làm cho bệnh nhân đau đớn và ảnhhưởng đến sinh hoạt, ăn uống. Dù không thể chữa khỏi hẳn, việc điều trị vẫncó thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời giankhông bị bệnh.Loét aphthe là một bệnh không lây truyền, thường gặp ở phía trong miệng.Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ, tuy nhiên, các nhà nghiêncứu có đề cập đến vấn đề môi trường và di truyền, nhưng chưa được chứngminh. Ngoài ra, chấn thương miệng, rối loạn nội tiết do chu kỳ kinh nguyệt,stress, uống thuốc (bao gồm các thuốc kháng viêm như ibuprofen và cácthuốc beta-blocker như atenolol), dị ứng với thực phẩm (chocolat, cà chua,hạt dẻ, các loại thực phẩm có vị chua như dứa và các chất bảo quản thựcphẩm như benzoic acid và cinnamaldehyde), sử dụng kem đánh răng có chứasodium lauryl sulfate, thiếu sắt, folic acid, hoặc vitamin B12, một số bệnh ởđường tiêu hóa… cũng được coi là yếu tố nguy cơ gây bệnh. Ảnh minh họa (nguồn Internet)Điều trị loét aphtheDù không thể chữa khỏi hẳn nhưng việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớttriệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh. Cóthể sử dụng một số thuốc sau đây:Nitrate bạc: Bôi trực tiếp lên tổn thương. Đã có những nghiên cứu ngẫu nhiênvề hiệu quả của thuốc. Thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thươngtổn trong vòng 3 – 5 ngày. Nhiều bệnh nhân không thích cảm giác nóngmiệng sau khi bôi thuốc nhưng rất hài lòng khi hết đau hoàn toàn sau vài giờ.Debacterol là phức hợp phenol sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tươngtự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảmgiác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 – 5 ngày. Thuốc bántheo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lầnmỗi ngày.Thuốc chỉ cung cấp theo toa bác sĩ nếu bệnh nhân chưa bớt sau khi sử dụngcác thuốc thông thường:Kem bôi có chứa triamcinolone acetonide: Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốtnhất là sau b ữa ăn chính và trước khi đi ngủ.Amlexanox (aphthasol): Bôi ngày 4 lần, sau khi ăn và trước lúc ngủ. Chưa cónhiều bằng chứng về khả năng nhanh chóng làm giảm đau và lành loét củathuốc.Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap)dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên,thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gâykích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.Gel lidocaine: Gel 2% lidocaine bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốcsau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.Dung dịch sucralfate (thường được dùng trong loét tiêu hóa): Còn ít nghiêncứu liên quan đ ến việc sử dụng sucralfate cho loét aphthe. Thường dùng bằngcách ngâm 1 viên thuốc vào 5-10ml (1-2 muỗng cà phê) nước. Bôi đều dungdịch lên niêm mạc miệng, để thuốc thấm vài phút rồi nhổ ra. Thực hiện 4 lầntrong ngày.Có thể dùng bổ sung nếu cơ thể người bệnh thiếu hụt folic acid, sắt hoặcvitamin B12. Cần uống nhiều tháng để tình trạng cải thiện.Chlorhexidine (cyteal, eludril): Dung dịch súc miệng sát khuẩn giúp maulành loét.Corticosteroid: Đối với trường hợp thật nặng, bác sĩ có thể xem xét cho dùngcorticosteroid đường uống sau khi cân nhắc giữa lợi ích và tác hại. Tác dụngphụ của thuốc bao gồm tăng cân, suy giảm miễn dịch, xương giòn dễ gãy,tăng tiết acid dẫn đến loét dạ dày…Thalidomide (thalomid): Trường hợp bị bệnh rất nặng, bác sĩ có thể xem xétdùng thalidomide. Tuy nhiên do gây ra nhiều tác dụng phụ, thuốc chỉ đượcFDA chấp thuận sử dụng cho loét aphthe nặng ở bệnh nhân HIV dương tính.Các thuốc có tiềm năng điều trị khác: Gồm các thuốc đã được dùng trongnhiều thử nghiệm như colchicine, pentoxifylline (trental), interferon,cimetidine (tagamet), clofazimine (lamprene), các tác nhân đối kháng TNF-a,infliximab (remicade), etanercept (enbrel), levamisole (ergamisol) vàdapsone. Một số thuốc trong danh sách dài trên đây khá đ ắt tiền, gây nhiềuphản ứng phụ nhưng lại chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt.Lưu ý:Đ ể loại trừ các bệnh khác có triệu chứng giống loét aphthe, bệnh nhân cần đikhám bệnh ngay nếu: đó là đợt phát bệnh đầu tiên và chưa chắc chắn về mặtchẩn đoán; đau ngày càng nhiều và không kiểm soát được; bệnh nhân có tiêuchảy (có thể người bệnh đ ã mắc một bệnh hệ thống như bệnh Crohn hoặcbệnh viêm loét đại tràng); có những ổ loét ở vị trí khác ngoài miệng (có thểbệnh nhân đã mắc một bệnh hệ thống như hội chứng Behcet hoặc một bệnhlây truyền qua đ ường tình dục); đối với các vết loét kéo dài trên 3 tuần.Làm gì để phòng bệnh?Nên tránh tất cả những nguyên nhân có thể gây chấn thương, dù rất nhẹ ởmiệng như dùng bàn chải đánh răng hoặc các loại thức ăn cứng; tránh stress;không dùng kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate nếu thường xuyênbị loét aph ...
Tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 283 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 235 0 0 -
MỘT SỐ BỆNH TIM MẮC PHẢI (Kỳ 2)
5 trang 217 0 0 -
6 trang 189 0 0
-
120 trang 176 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 169 0 0 -
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 167 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 154 5 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 127 0 0 -
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 126 0 0