Danh mục

Thuyết trình Kiểm soát vốn của Việt Nam

Số trang: 26      Loại file: pdf      Dung lượng: 550.98 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu của kiểm soát vốn kìm chế dòng vốn nước ngòai chảy hoặc chảy ra một các ào ạt gây thiệt hại cho hệ thống tài chính tiền tệ của một quốc gia và là nguyên nhân gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính tòan cầu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết trình Kiểm soát vốn của Việt Nam Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÓAT VỐN 1.1. Kiểm soát vốn 1.1.1. Khái niệm: là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và ra khỏi một quốc gia để nhằm đạt “mục tiêu nhất định” của chính phủ. 1.1.2. Mục tiêu kiểm sóat vốn: Mục tiêu của kiểm soát vốn kìm chế dòng vốn nước ngòai chảy hoặc chảy ra một các ào ạt gây thiệt hại cho hệ thống tài chính tiền tệ của một quốc gia và là nguyên nhân gây nên những cuộc khủng hoảng tài chính tòan cầu. Mục tiêu kiểm sóat vốn cần phải hướng đến một “chiến lược tổng thể” nhằm mục đích hướng đến một hệ thống tài chính - tiền tệ phát triển lành mạnh và ổn định. 1.1.3 Lý thuyết bộ ba bất khả thi * Khái niệm: Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity (hay Inconsistent Trinity hay Triangle of Impossibility)) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát biểu rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô: + Ổn định tỷ giá + Tự do hóa dòng vốn + Chính sách tiền tệ độc lập Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình Mundell- Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Vào những năm 1980 khi vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc neo giữ tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở. Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều kiện ngày nay, một quốc gia phải lựa chọn việc hy sinh một trong 3 mục tiêu chính sách vĩ mô trên nghĩa là phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể có đồng thời cả hai. [ GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 1 Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2 1.1.4. Các hình thức kiểm sóat vốn: Về phương diện lý thuyết, có hai hình thức kiểm soát vốn là kiểm soát vốn trực tiếp (hay còn gọi là kiểm soát mang tính hành chính) và kiểm soát vốn gián tiếp (dựa trên cơ sở thị trường.) - Kiểm soát vốn trực tiếp là việc hạn chế những giao dịch vốn, những khoản thanh toán liên quan đến giao dịch vốn và việc chuyển tiền bằng những qui định mang tính chất hành chính (như đặt ra các thủ tục kê khai...). Việc Chính phủ dừng lại mở room cho các nhà đầu tư nước ngoài chính là biện pháp kiểm soát vốn mang tính hành chính. - Kiểm soát vốn gián tiếp hay còn gọi là kiểm sóat dựa trên cơ sở thị trường là việc hạn chế những biến động của dòng vốn và những giao dịch khác thông qua các biện pháp thị trường, chủ yếu là làm cho các giao dịch vốn phải tốn kém nhiều chi phí hơn, từ đó hạn chế (không phải ngăn cấm) các giao dịch này. Việc kiểm soát như thế có thể xảy ra dưới các hình thức khác nhau mà điển hình nhất là đánh thuế cao trên các dòng vốn ngắn hạn, đi liền với việc miễn thuế đối với các dòng vốn mang tính dài hạn. Trong hai biện pháp trên, cần phải hạn chế đến mức thấp nhất biện pháp kiểm soát mang tính hành chính. Ngoại trừ một số ngành nghề và lĩnh vực nhạy cảm, việc dừng lại chủ trương mở room (kiểm soát trực tiếp) đồng loạt cho các lĩnh vực như trong thời gian qua là điều mà Chính phủ cần phải xem xét lại bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương thu hút vốn hiện nay. 1.1.5. Giá phải trả của kiểm soát vốn! Có nhiều quan điểm lầm tưởng rằng nếu như áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn gián tiếp thì sẽ không phải trả giá. Trên thực tế, đã gọi là kiểm soát vốn thì cho dù là áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn như thế nào cũng phải trả một giá nhất định. Cái giá chung nhất chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu hút vốn đầu tư khi mà các quốc gia ngày càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút dòng vốn toàn cầu. Các dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam bao gồm các nguồn chủ yếu sau: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư gián tiếp (FII), kiều hối của người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài, và các nguồn vốn khác. 1.2. Các nguồn vốn nước ngoài 1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI - Foreign direct investment) * Khái niệm: - Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. [ GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa Trang 2 Đề tài: Kiểm soát vốn của Việt Nam Thực hiện: Nhóm 2 - Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. - Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy. - Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việ ...

Tài liệu được xem nhiều: