Thông tin tài liệu:
Những hoạt động thuê đã có từ cách đây rất lâu, có thể tới năm
nghìn năm trước. Tuy nhiên phải thêm hai trăm năm nữa hoạt động
CTTC mới xuất hiện. Từ những năm 2000 trước công nguyên đã
xuất hiện những công ty CTTC đầu tiên tại Xume với những tài sản
thuê rất đơn giản như là: Công cụ nông nghiệp, vật nuôi, gia cầm…
Đến năm 1952 hoạt động CTTC với những hình thức như hiện nay
mới bắt đầu xuất hiện tại Hoa Kỳ với công ty CTTC đầu tiên được
thành lập bởi Henry Shofld, chủ yếu phục vụ ngành vận...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết trình Tài chính doanh nghiệp
Nguyễn Vĩnh An Trần Thị Loan
Nguy
Nguyễn Thanh Danh Đinh Thị Dung
Nguyễn T.Thùy Nhiên Nguyễn Thanh Lam
Nguyễn Minh Tâm Phương Thị Tươi
Phạm Trương Tố Linh
GVHD: Th.s Trương Văn
Cường
Lịch sử hình thành của hoạt động cho thuê tài chính
Những hoạt động thuê đã có từ cách đây rất lâu, có thể tới năm
nghìn năm trước. Tuy nhiên phải thêm hai trăm năm nữa hoạt động
CTTC mới xuất hiện. Từ những năm 2000 trước công nguyên đã
xuất hiện những công ty CTTC đầu tiên tại Xume với những tài sản
thuê rất đơn giản như là: Công cụ nông nghiệp, vật nuôi, gia cầm…
Đến năm 1952 hoạt động CTTC với những hình thức như hiện nay
mới bắt đầu xuất hiện tại Hoa Kỳ với công ty CTTC đầu tiên được
thành lập bởi Henry Shofld, chủ yếu phục vụ ngành vận tải đường
sắt.
Ở Châu Âu cũng nhanh chóng xuất
hiện những công ty CTTC vào đầu
những năm 1960 và cho đến nay,
hoạt động CTTC đã được sử dụng
tại hơn 80 quốc gia chủ yếu là các
nước đang phát triển với khối
lượng dư nợ cho thuê trên 500 tỷ
đô la tương đương 12,5% đầu tư
tư nhân của thế giới
Tại Việt Nam, công ty CTTC xuất hiện đầu
tiên vào năm 1996, tuy nhiên phải đến năm
2001, khi Chính phủ ban hành Nghị định
16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 về tổ chức và
hoạt động của công ty CTTC thì hoạt động
CTTC ở Việt Nam mới thực sự hình thành và
phát triển.
1. Khái niệm:
Cho thuê tài chính (Finance leasing) là hoạt động tín dụng
trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, phương
tiện vận chuyển và cho thuê các động sản khác trên cơ sở
hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng và bên thuê là khách hàng.
2. Đặc điểm
Tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn
mà không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên
cho thuê. Chính vì đặc điểm này mà bên cho thuê không chịu
trách nhiệm về việc tài sản không được giao hoặc không
giao đúng với các điều kiện cho bên thuê thoả thuận với bên
cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16).
Thời hạn thuê là trung hoặc
dài hạn, chiếm phần lớn thời
gian hữu dụng của tài sản và
không thể bị huỷ ngang theo ý
chí của một bên.
Trong CTTC, bên thuê không
cần dùng tài sản của mình để
bảo đãm nghĩa vụ trả nợ.
CTTC là loại hình tín dụng sản xuất, kinh doanh. Tài
sản cho thuê là các máy móc, thiết bị phục vụ nhu cầu
sản xuất kinh doanh của bên thuê.
Trong CTTC bên thuê không cần có vốn đối ứng tham
gia vào việc hình thành tài sản cho thuê. Bên cho thuê
trực tiếp ký hợp đồng mua toàn bộ tài sản cho thuê và
thanh toán toàn bộ các chi phí phát sinh cho việc hình
thành tài sản cho thuê.
Theo quy định tại Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16:
Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát, hư hỏng đối
với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do
việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân
khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê.
Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo
dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời
hạn thuê. Không được tẩy xoá, làm hỏng
ký hiệu sở hữu gắn trên tài sản thuê”.
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng
cho thuê tài chính (CTTC).
1.1. Khái niệm:
- Hợp đồng CTTC là sự thỏa thuận của các bên trong
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các bên. Theo đó, công ty CTTC sẽ cho khách hàng
quyền sử dụng tài sản trong một khoản thời gian nhất
định với điều kiện khách hàng phải trả tiền thuê theo
đúng cam kết.
1.2. Đặc điểm
Hợp đồng CTTC được hình thành trên cơ sở thỏa thuận,
bình đẳng, tự nguyện giữa các bên.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm cho rằng hợp đồng
CTTC là hợp đồng ba bên gồm có người bán, người cho
thuê và người thuê. Mặc dù có thể thấy rằng trong quan hệ
thuê tài chính mỗi bên nêu trên đều có những quyền và
nghĩa vụ khác nhau
Hợp đồng CTTC còn thực hiện chức năng bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ.
Trong hợp đồng CTTC người cho thuê phải có mục
đích cung cấp tài chính, có nghĩa là người cho thuê khi
đầu tư vào tài sản này hoàn toàn không phải vì tính
năng, công dụng của nó mà mục đích đặt ra là khoản lời
từ số tiền do người thuê thanh toán.
Tài sản thuê trong hoạt động CTTC chỉ để sử dụng
trong hoạt động kinh doanh thương mại.
1.3. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài
chính
Bên cho thuê
- CTTC cũng là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn,
tuy nhiên hiện nay pháp luật Việt Nam không cho phép các
NHTM được trực tiếp thực hiện nghiệp vụ này mà các
NHTM phải thành lập hoặc mua lại công ty con, công ty liên
kết để thực hiện hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính.
- CTTC là hoạt động kinh doanh có điều kiện theo quy định
pháp luật. Do đó, để trở thành bên cho thuê trong hợp đồng
cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện theo quy định pháp luật
Cụ thể tại điều 8, điều 11 Nghị định 16/2001/NĐ-CP các
TCTD phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: Có giấy phép
thành lập và hoạt động do NHNN cấp; có vốn điều lệ theo
quy định hiện hành là 150 tỷ; có điều lệ đã được NHNN
chuẩn y; thành viên sáng lập là các tổ chức, cá nhân có uy tín
và năng lực tài chính; có người đại diện đủ năng lực và thẩm
quyền để giao kết hợp đồng CTTC với khách hàng.
Việc pháp luật quy định những điều kiện trên đối với bên
cho thuê không chỉ góp phần hạn chế, loại trừ những TCTD không
đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên thương trường mà qua đó cũng góp
phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ CTTC. Ngoài ra đây còn
là căn cứ để các thẩm phán, trọng tài thương mại có thể tiến hành
giải quyết tranh chấp kh ...