Thông tin tài liệu:
Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Y học Đại học Erasmus MC ở Hà Lan phát hiện thấy điều trị cyclosporin là một yếu tố nguy cơ quan trọng cho phát triển ung thư mới phát ở bệnh nhân (BN) ghép gan. Chi tiết đầy đủ được đăng trên số tháng 7 của tờ Liver Transplantation, một tạp chí của Hội Nghiên cứu Bệnh Gan Mỹ (AASLD) do Wiley-Blackwell xuất bản. Tỉ lệ sống thêm 1 năm sau ghép gan đã tăng lên đáng kể trong ba thập kỷ qua, lên hơn 80%. Ngược lại, chỉ có sự...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ti lệ ung thư cao ở BN ghép gan được dùng cyclosporin Ti lệ ung thư cao ở BN ghép gan được dùng cyclosporin Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Y học Đại học Erasmus MC ở HàLan phát hiện thấy điều trị cyclosporin là một yếu tố nguy cơ quan trọng chophát triển ung thư mới phát ở bệnh nhân (BN) ghép gan. Chi tiết đầy đủđược đăng trên số tháng 7 của tờ Liver Transplantation, một tạp chí của HộiNghiên cứu Bệnh Gan Mỹ (AASLD) do Wiley-Blackwell xuất bản. Tỉ lệ sống thêm 1 năm sau ghép gan đã tăng lên đáng kể trong ba thậpkỷ qua, lên hơn 80%. Ngược lại, chỉ có sự cải thiện chút ít về kết quả lâu dài.Ung thư là một trong những nguyên nhân chính hàng đầu của tử vong muộnsau ghép gan và được báo cáo là liên quan trực tiếp đến cường độ và liềutích lũy của ức chế miễn dịch. Các chất ức chế calcineurin (CNI) như cyclosporin (CsA) hoặctacrolimus (TAC) là cơ sở cho điều trị ức chế miễn dịch sau ghép tạng.Nhiều nghiên cứu đã cho những kết quả mâu thuẫn về tỷ lệ mắc mới ung thưmới phát giữa các phác đồ CsA và TAC. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằmlàm sáng tỏ vai trò của các phác đồ CNI khác nhau trong sự xuất hiện củaung thư mới phát sau ghép gan. Nhóm nghiên cứu Hà Lan đã tiến hành phân tích hồi cứu ở 385 BNđược ghép gan từ năm 1986 đến 2007. Dữ liệu phân tích bao gồm tuổi củangười nhận tại thời điểm ghép, giới tính của người nhận, chỉ định ghép ganchính, loại liệu pháp ức chế miễn dịch chính, bệnh ác tính mới phát saughép, khoảng thời gian từ khi ghép gan đến khi chẩn đoán bệnh ác tính,khoảng thời gian từ khi ghép gan hoặc chẩn đoán ung thư đến khi tử vong vàkhoảng thời gian từ khi ghép gan đến chẩn đoán thải ghép cấp đầu tiên. Tấtcả các BN được theo dõi cho đến tháng 12/2008. Chỉ số đầu ra chính là bệnhác tính mới phát, được định nghĩa là sự phát triển của ung thư khác ngoàiung thư gan nguyên phát tái phát. Trong số 385 đối tượng nghiên cứu, 50BN (13,0%) bị ít nhất một ung thư mới phát. Các nhà nghiên cứu thấy rằng điều trị CsA so với TAC là yếu tố nguycơ quan trọng nhất của bệnh ác tính mới phát sau ghép gan. Tuy nhiên, nguycơ ung thư cao hơn này không thấy ở tất cả các BN được điều trị CsA,nhưng CsA đặc biệt làm tăng sự phát triển của ung thư mới phát ở BN ghépgan trong những năm gần đây (2005-2007) và ở những BN trẻ (dưới 50tuổi). Ngoài ra, điều trị CsA thường dẫn đến các thể ung thư ác tính hơn sovới TAC, với tỷ lệ sống thêm 1 năm dưới 30%. Lý do tăng tỷ lệ ung thư trong số BN ghép gan dùng CsA được cho làdo từ tháng 1/2005, việc định liều CsA dựa trên việc theo dõi nồng độ C0 cổđiển được thay thế bằng định liều dựa trên theo dõi nồng độ C2 ở tất cả cácBN ghép gan. Vì đây là thay đổi lớn duy nhất trong điều trị CsA trong giaiđoạn nghiên cứu gần đây, nhóm nghiên cứu kết luận rằng chiến lược theodõi C2 là lý do làm tăng nguy cơ ung thư sớm mới phát. TS Herold Metselaar, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết: “Đáng ngạcnhiên là các BN điều trị CsA ghép gan từ năm 2005 có nguy cơ ung thư mớiphát trong giai đoạn đầu sau khi ghép gan cao gấp 9,9 lần so với các BNđiều trị TAC. Dữ liệu này chỉ ra rằng chỉ có điều trị CsA đặc hiệu được sửdụng trong những năm gần đây là liên quan đến nguy cơ cao hơn bị pháttriển sớm ung thư mới phát. Chúng tôi cũng thấy rằng, so với những BNđiều trị TAC, các BN điều trị CsA có nguy cơ cao gấp 2,5 lần bị các thể ungthư ác tính hơn không thuộc ung thư da không phải u hắc tố và loại rối loạntăng sinh lympho sau ghép (PTLD), cho thấy CsA chỉ ra rằng không nhữngliên quan đến nguy cơ ung thư mới phát sớm cao hơn, mà còn liên quan đếnnhững thể ung thư có tiên lượng xấu hơn. Trong bài xã luận đăng trên cùng số báo này, BS Julie Thompson chorằng cần nghiên cứu thêm và nêu rõ: Metselaar và các cộng sự thu hút đượcsự chú ý cần thiết về việc dùng thuốc ức chế miễn dịch và mối quan hệ củanó với các kết quả lâu dài sau ghép gan. Những dữ liệu này như một lời kêugọi đánh giá lại mức độ của các phác đồ ức chế miễn dịch hiện hành nhưmột biện pháp làm giảm nguy cơ từ bệnh ác tính mới phát. ...