![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Tiếp cận lý thuyết con người bằng lý thuyết hệ thống
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 141.15 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhà quản lý Quản lý suy cho cùng là việc huy động tối đa năng lực của những người dưới quyền mình vào công việc chung. Muốn “dụng nhân tựa dụng mộc” thì phải hiểu về” nhân”. Xưa nay người ta thường sử dụng hai phương pháp tiếp cận cá tính của con người: Tiếp cận qua lai lịch và tiếp cận bằng tướng, số. Tìm hiểu con người qua lý lịch là phương pháp xem xét hoàn cảnh sinh trưởng để xác định tính cách con người, dựa vào phép biện chứng duy vật tìm hiểu con người...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp cận lý thuyết con người bằng lý thuyết hệ thống Tiếp cận lý thuyết con người bằng lý thuyết hệ thống Nhà quản lý Quản lý suy cho cùng là việc huy động tối đa năng lực của những người dưới quyền mình vào công việc chung. Muốn “dụng nhân tựa dụng mộc” thì phải hiểu về” nhân”. Xưa nay người ta thường sử dụng hai phương pháp tiếp cận cá tính của con người: Tiếp cận qua lai lịch và tiếp cận bằng tướng, số. Tìm hiểu con người qua lý lịch là phương pháp xem xét hoàn cảnh sinh trưởng để xác định tính cách con người, dựa vào phép biện chứng duy vật tìm hiểu con người bằng tướng (hình hài) và số (ngày giờ sinh) thực chất là dựa vào thống kê kinh nghiệm. Các phương pháp này đều ít nhiều mang tính chất khoa học, và hiện vẫn đang được sử dụng như các phương tiện hữu hiệu để tìm hiểu về con người. Tuy nhiên, có thời, có nơi cách này ho ặc cách kia bị lạm dụng thái quá, gây ra không ít thiệt thòi cho nhiều người, và rắc rối cho xã hội. Vận dụng lý thuyết hệ thống xin được đưa ra một phương pháp m ới tiếp cận cá tính con người. Phương pháp này xin được ký tên là: Tiếp cận cá tính con người bằng lý thuyết hệ thống. Cơ sở lý luận của phương pháp này d ựa trên quan niệm: con người nhìn vào tính cách là một 'hộp đen' (black box), đấu đó có nghĩa là: ta không thể nhìn thấy những gì x ảy ra trong tư duy của con người, không thể lý giải được tai sao đứng trước cùng một sự kiện, anh A phản ứng thế này, anh B lại phản ứng thế kia? 'Con người - hộp đen' ấy luôn nhận các tín hiệu thông tin đầu vào (X) và luôn phải trả lại bằng các tín hiệu đầu ra (Y). Cách tốt nhất để tiếp cận với con người - tiếp cận với cái hệ thống m à ta không nhìn được vào bên trong đó - là thông qua X và Y. Tìm hiểu 'con người - hộp đen' thông qua thông tin đầu vào và thông tin đầu ra chỉ giới hạn ở độ nhạy về thông tin, còn chất lượng của tín hiệu thông tin phản hồi lại là vấn đề khác. Chỉ cần đánh giá hai loại khả năng của một con người là: khả năng tiếp nhận tín hiệu đầu vào X và xử lý để có được tín hiệu thông tin đầu ra Y là nhanh hay chậm m à thôi. Cũng có thể gọi là tốc độ nhận thức, và tốc độ phản ứng. Nếu biểu thị hai loại khả năng trên b ằng trục hoành và trục tung, ta đ ược một 'hệ tọa độ tâm lý', mà mỗi góc hệ tọa độ biểu thị một dạng tính cách của con người. Góc I: Nh ững người nhận thức nhanh và phản ứng nhanh: Đặc điểm tính cách của những người này là: tình sôi nổi. Tính N hạy cảm, thông thái. khám phá, sáng tạo. Thích Thường không vừa lòng với thực tại, thích cải tiến, đổi mới. Dễ đam mê hứng khởi nhưng cũng dễ chán nản bi quan. làm việc độc lập. Thích Ở đỉnh cao thường khó hòa nhập với mọi người. Nên dùng những người này vào những công việc đòi hỏi tư duy trí tuệ, cần sự sáng tạo như làm nghệ thuật, nghiên c ứu khoa học, làm công việc kỹ thuật, làm tư vấn, điều tra thị trường, làm kiểm toán, thanh tra... Góc II: Những ng ười nhận thức nhanh, phản ứng chậm. Đặc điểm tính cách của những người này là: tình đ iềm đạm, chín chắn. Tính Biết lắng nghe ý kiến người khác. Dễ hòa nhập vào quần chúng. Dễ bằng lòng với cuộc sống, công việc. Nên dùng những người này vào những công việc không cần sáng tạo nhiều, nhưng chắc chắn. Những người này thích hợp với vai trò lãnh đ ạo: trưởng phòng, trưởng nhóm, tố trưởng sản xuất... họ thường là người tốt và được mọi người yêu mến. Góc III: Những ng ười nhận thức chậm, phản ứng cũng chậm. Đặc điểm tính cách của những người này là: tình cần mẫn, lành hiền. Tính Bằng lòng với cuộc sống, cam chịu. thành với cấp trên. Trung công việc ổn định, ngại đổi mới. Thích Thích lao động chân tay hơn là lao động trí óc. Những người này thích hợp với những công việc đã làm quen thuộc, đã được hướng dẫn cụ thể, ít phải tư duy sáng tạo. Góc IV: Những ng ười nhận thức chậm, nhưng phản ứng nhanh. Đặc điểm tính cách của những người này là: chín chắn (hồ đồ). K hông Dễ manh động, liều lĩnh, vô kỷ luật. yên tâm với công việc và cuộc sống. K hông xung khắc với mọi người. H ay Với những người này phải luôn quan tâm đến vấn đề tư tưởng, tránh cho họ khỏi bị kích động bởi những thông tin sai lệch. Có thể giao cho họ những công việc đòi hỏi sự dũng cảm, nhưng phải có sự động viên giải thích đầy đủ. Ở mức độ khái quát ta phân tính cách con người thành 4 dạng dựa vào 4 góc của tọa độ tâm lý như trên, khi biểu thị tính cách của một người trên tọa độ tâm lý thì người nào có tính cách nổi trội hơn, người đó được biểu thị bằng điểm cách xa gốc của hệ tọa độ hơn (ví dụ như anh A và anh C). Nếu vẽ thêm đường phân giác của các góc ta có thể phân mỗi góc thành hai phần, đường phân giác là ranh giới phản ánh tương quan giữa độ nhạy về nhận thức và độ nhạy về phản ứng. Hai người cùng thuộc về một góc của toạ độ tâm lý, người này có thể trội hơn người kia về nhận thức nhưng lại kém hơn về phản ứng (anh A và anh B). Tất nhiên đối với con người thì sự phân định các khả năng như trên cũng chỉ là tương đ ối, tuy nhiên nếu được tiếp xúc nhiều, nhất là tiếp xúc qua công việc thì xác định X và Y của một con người là hoàn toàn có thể. Nguyễn Thanh Khiết Theo Nhà quản lý ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp cận lý thuyết con người bằng lý thuyết hệ thống Tiếp cận lý thuyết con người bằng lý thuyết hệ thống Nhà quản lý Quản lý suy cho cùng là việc huy động tối đa năng lực của những người dưới quyền mình vào công việc chung. Muốn “dụng nhân tựa dụng mộc” thì phải hiểu về” nhân”. Xưa nay người ta thường sử dụng hai phương pháp tiếp cận cá tính của con người: Tiếp cận qua lai lịch và tiếp cận bằng tướng, số. Tìm hiểu con người qua lý lịch là phương pháp xem xét hoàn cảnh sinh trưởng để xác định tính cách con người, dựa vào phép biện chứng duy vật tìm hiểu con người bằng tướng (hình hài) và số (ngày giờ sinh) thực chất là dựa vào thống kê kinh nghiệm. Các phương pháp này đều ít nhiều mang tính chất khoa học, và hiện vẫn đang được sử dụng như các phương tiện hữu hiệu để tìm hiểu về con người. Tuy nhiên, có thời, có nơi cách này ho ặc cách kia bị lạm dụng thái quá, gây ra không ít thiệt thòi cho nhiều người, và rắc rối cho xã hội. Vận dụng lý thuyết hệ thống xin được đưa ra một phương pháp m ới tiếp cận cá tính con người. Phương pháp này xin được ký tên là: Tiếp cận cá tính con người bằng lý thuyết hệ thống. Cơ sở lý luận của phương pháp này d ựa trên quan niệm: con người nhìn vào tính cách là một 'hộp đen' (black box), đấu đó có nghĩa là: ta không thể nhìn thấy những gì x ảy ra trong tư duy của con người, không thể lý giải được tai sao đứng trước cùng một sự kiện, anh A phản ứng thế này, anh B lại phản ứng thế kia? 'Con người - hộp đen' ấy luôn nhận các tín hiệu thông tin đầu vào (X) và luôn phải trả lại bằng các tín hiệu đầu ra (Y). Cách tốt nhất để tiếp cận với con người - tiếp cận với cái hệ thống m à ta không nhìn được vào bên trong đó - là thông qua X và Y. Tìm hiểu 'con người - hộp đen' thông qua thông tin đầu vào và thông tin đầu ra chỉ giới hạn ở độ nhạy về thông tin, còn chất lượng của tín hiệu thông tin phản hồi lại là vấn đề khác. Chỉ cần đánh giá hai loại khả năng của một con người là: khả năng tiếp nhận tín hiệu đầu vào X và xử lý để có được tín hiệu thông tin đầu ra Y là nhanh hay chậm m à thôi. Cũng có thể gọi là tốc độ nhận thức, và tốc độ phản ứng. Nếu biểu thị hai loại khả năng trên b ằng trục hoành và trục tung, ta đ ược một 'hệ tọa độ tâm lý', mà mỗi góc hệ tọa độ biểu thị một dạng tính cách của con người. Góc I: Nh ững người nhận thức nhanh và phản ứng nhanh: Đặc điểm tính cách của những người này là: tình sôi nổi. Tính N hạy cảm, thông thái. khám phá, sáng tạo. Thích Thường không vừa lòng với thực tại, thích cải tiến, đổi mới. Dễ đam mê hứng khởi nhưng cũng dễ chán nản bi quan. làm việc độc lập. Thích Ở đỉnh cao thường khó hòa nhập với mọi người. Nên dùng những người này vào những công việc đòi hỏi tư duy trí tuệ, cần sự sáng tạo như làm nghệ thuật, nghiên c ứu khoa học, làm công việc kỹ thuật, làm tư vấn, điều tra thị trường, làm kiểm toán, thanh tra... Góc II: Những ng ười nhận thức nhanh, phản ứng chậm. Đặc điểm tính cách của những người này là: tình đ iềm đạm, chín chắn. Tính Biết lắng nghe ý kiến người khác. Dễ hòa nhập vào quần chúng. Dễ bằng lòng với cuộc sống, công việc. Nên dùng những người này vào những công việc không cần sáng tạo nhiều, nhưng chắc chắn. Những người này thích hợp với vai trò lãnh đ ạo: trưởng phòng, trưởng nhóm, tố trưởng sản xuất... họ thường là người tốt và được mọi người yêu mến. Góc III: Những ng ười nhận thức chậm, phản ứng cũng chậm. Đặc điểm tính cách của những người này là: tình cần mẫn, lành hiền. Tính Bằng lòng với cuộc sống, cam chịu. thành với cấp trên. Trung công việc ổn định, ngại đổi mới. Thích Thích lao động chân tay hơn là lao động trí óc. Những người này thích hợp với những công việc đã làm quen thuộc, đã được hướng dẫn cụ thể, ít phải tư duy sáng tạo. Góc IV: Những ng ười nhận thức chậm, nhưng phản ứng nhanh. Đặc điểm tính cách của những người này là: chín chắn (hồ đồ). K hông Dễ manh động, liều lĩnh, vô kỷ luật. yên tâm với công việc và cuộc sống. K hông xung khắc với mọi người. H ay Với những người này phải luôn quan tâm đến vấn đề tư tưởng, tránh cho họ khỏi bị kích động bởi những thông tin sai lệch. Có thể giao cho họ những công việc đòi hỏi sự dũng cảm, nhưng phải có sự động viên giải thích đầy đủ. Ở mức độ khái quát ta phân tính cách con người thành 4 dạng dựa vào 4 góc của tọa độ tâm lý như trên, khi biểu thị tính cách của một người trên tọa độ tâm lý thì người nào có tính cách nổi trội hơn, người đó được biểu thị bằng điểm cách xa gốc của hệ tọa độ hơn (ví dụ như anh A và anh C). Nếu vẽ thêm đường phân giác của các góc ta có thể phân mỗi góc thành hai phần, đường phân giác là ranh giới phản ánh tương quan giữa độ nhạy về nhận thức và độ nhạy về phản ứng. Hai người cùng thuộc về một góc của toạ độ tâm lý, người này có thể trội hơn người kia về nhận thức nhưng lại kém hơn về phản ứng (anh A và anh B). Tất nhiên đối với con người thì sự phân định các khả năng như trên cũng chỉ là tương đ ối, tuy nhiên nếu được tiếp xúc nhiều, nhất là tiếp xúc qua công việc thì xác định X và Y của một con người là hoàn toàn có thể. Nguyễn Thanh Khiết Theo Nhà quản lý ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
phương pháp kinh doanh tài liệu kinh doanh chuyên ngành kinh doanh nghiệp vụ kinh doanh kinh nghiệm kinh doanh tự học kinh doanhTài liệu liên quan:
-
Hai giải pháp contact center mới tại Việt Nam
4 trang 324 0 0 -
Làm thế nào để đàm phán lương thành công
4 trang 320 1 0 -
Công ty cần nhân tài nhiều hơn nhân tài cần công ty
9 trang 315 0 0 -
Chỉ số đo lường hiệu suất – Key Performance Indicator (KPI)
7 trang 261 0 0 -
Thực trạng cạnh tranh giữa các công ty may Hà nội phần 7
11 trang 202 0 0 -
Sử dụng Email Marketing như một công cụ để spam là hủy hoại danh tiếng của bạn
10 trang 197 0 0 -
Giáo trình địa lý kinh tế- xã hội Việt Nam part 4
26 trang 165 0 0 -
Kinh nghiệm tìm kiếm khách hàng khi khởi nghiệp
5 trang 141 0 0 -
444 trang 139 0 0
-
Xây dựng văn hóa tiêu dùng Việt Nam - Phát triển thương hiệu hàng Việt
5 trang 136 0 0