Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II)
Số trang: 24
Loại file: pdf
Dung lượng: 296.23 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phân biệt giữa vay mượn và tiếp nhận chọn lọc Chúng tôi muốn chứng minh rằng, một mặt các quy định về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là ví dụ khá điển hình về sự vay mượn máy móc pháp luật nước ngoài vào hệ thống pháp luật quốc gia. Mặt khác, Luật Công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp (1999, 2005) của Việt Nam là ví dụ về tiếp nhận có chọn lọc, thành công. 2.1. Vay mượn: DNNN của Việt Nam - mô hình Xô viết DNNN Việt Nam là mô hình gần như sao chép...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II) Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II) 2. Phân biệt giữa vay mượn và tiếp nhận chọn lọc Chúng tôi muốn chứng minh rằng, một mặt các quy định về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là ví dụ khá điển hình về sự vay mượn máy móc pháp luật nước ngoài vào hệ thống pháp luật quốc gia. Mặt khác, Luật Công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp (1999, 2005) của Việt Nam là ví dụ về tiếp nhận có chọn lọc, thành công. 2.1. Vay mượn: DNNN của Việt Nam - mô hình Xô viết DNNN Việt Nam là mô hình gần như sao chép mô hình của Liên Xô cũ (1). Mặc dù Luật DNNN 1995, sửa đổi năm 2003 đã có những nội dung được hoàn thiện hơn (2), nhưng trên thực tế, tinh thần của quan niệm Xô viết về DNNN (3) vẫn là cơ sở tư tưởng của DNNN ở Việt Nam, cấu trúc, chức năng của các doanh nghiệp này. Về mặt tư tưởng, DNNN là một hình thức của sở hữu nhà nước - hình thức sở hữu chính của chế độ XHCN. Về mặt chức năng, DNNN đóng vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế quốc dân. Và một điều nghịch lý nhưng dễ hiểu là mặc dầu kế hoạch hóa đã được xóa bỏ, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn mạnh mẽ dưới hình thức DNNN hiện nay (4). Về mặt cấu trúc, DNNN vẫn chịu sự kiểm soát của các bộ ngành và chính quyền các tỉnh /thành. Có lẽ, mô hình này tiếp tục được vay mượn để thể hiện nội dung “định hướng XHCN” trong câu “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Như đã nói, Việt Nam cố gắng kết hợp “XHCN” với “thị trường”, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn, nhiều khía cạnh vẫn chưa sáng tỏ. Chính sự lúng túng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong hoạt động và quá trình cải cách của DNNN (5). i. DNNN: gánh nặng của Nhà nước và người dân Vấn đề đầu tiên liên quan đến các khoản nợ khó đòi của DNNN. Nhiều doanh nghiệp này tiếp tục hoạt động với những khoản nợ đối tác và ngân hàng ngày càng tăng. Trong nhiều trường hợp, chúng lại được Nhà nước cho vay thêm tiền từ ngân hàng để trả nợ cũ, bởi lẽ với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước dĩ nhiên phải đứng ra chịu trách nhiệm về các khoản nợ đó (6). DNNN không chịu áp lực cải cách vì trái với khu vực tư nhân, các doanh nghiệp này không phải chịu áp lực đổ bể từ ngoài thị trường. Cuối cùng, người trả nợ chính là người dân. ii. Có tách bạch được chức năng? Vấn đề tiếp theo là việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh ở DNNN. Điều này hầu như không thực hiện được, bởi lẽ việc bổ nhiệm các chức danh quản lý cao nhất trong DNNN bị ảnh hưởng, nếu không nói là được quyết định bởi cấp chính quyền. Hơn nữa, nếu trao quyền sở hữu cho một cơ quan hành chính sẽ gặp phải vấn đề là làm thế nào để vượt qua sự phản đối của các bên bị ảnh hưởng về quyền lợi. Vấn đề này sẽ được chúng tôi bàn kỹ hơn trong Phần (III). iii. DNNN: Đục nước béo cò Mô hình thiếu sáng tỏ về sở hữu và quản lý DNNN đã tạo cơ sở cho tham nhũng hành động. Vụ điện kế điện tử có thể là một ví dụ điển hình cho nhiều vụ tương tự (xem hộp). Thực trạng hoạt động của các DNNN đòi hỏi chúng phải tuân theo các quy luật của thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho rằng, cần phải chuyển tài sản của DNNN cho các nhà đầu tư tư nhân, tức là bằng cách cổ phần hóa (7). Những tác giả khác như David Dapice khẳng định, mối ưu tiên tối thượng ở đây là phải tạo ra môi trường để nuôi dưỡng, phát triển những doanh nghiệp hiệu quả dù đó là DNNN, tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài (8). Còn theo kinh nghiệm được đúc kết trên thế giới, cải cách DNNN chỉ thực sự thành công ở những nước áp dụng tất cả các biện pháp có tính tổng thể, hỗ trợ lẫn nhau như tạo môi trường cạnh tranh, thắt chặt kiểm soát ngân sách DNNN, cải cách hệ thống tài chính… (9) Như vậy, dường như chỉ có một chiến lược tổng thể mới mang lại thành công thực sự đối với việc cải cách DNNN. Nói tóm lại, mặc dù khái niệm DNNN theo kiểu Xô viết được du nhập tự nguyện, nhưng nó lại không vận hành một cách suôn sẻ trong môi trường mới. Lý do rất đơn giản: trước hết, bản thân khái niệm gốc cũng chịu thất bại ở trên đất của nó. Thứ hai, triết lý của nó không phù hợp với các nguyên tắc của cơ chế thị trường như đã nói ở trên. Hơn nữa, có vẻ như sự cố gắng kết hợp khái niệm của XHCN về sở hữu và hợp đồng với các nguyên tắc thị trường khó mà thành công, vì bối cảnh mới (thị trường) nhiều lúc bị bỏ qua để ưu ái cho tư tưởng (XHCN). Trong quá trình cải cách DNNN, Việt Nam cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước phát triển như Hàn Quốc (10), Nhật Bản (11), OECD(12). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn không thể dứt bỏ hẳn với mô hình DNNN kiểu Xô viết. Như một số tác giả nhận xét, sau hơn một thập niên tồn tại, mô hình tổng công ty bắt chước một phần mô hình của Hàn Quốc và Nhật Bản đã cho thấy không phù hợp (13). Theo các tác giả, mô hình tổng công ty vẫn không giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và kinh doanh trong DNNN. Theo chúng tôi, ở đây cần xem xét vấn đề từ chiều ngược lại, nghĩa là: chính sự rắc rối trong mối quan hệ đó (được vay mượn từ mô hình nước ngoài) đã dẫn đến sự thiếu hiệu quả, không phù hợp của mô hình. Như luận điểm của Teubner về các mối ràng buộc chặt chẽ và lỏng lẻo của pháp luật với bối cảnh xã hội, trong trường hợp của DNNN ở Việt Nam, pháp luật có mối ràng buộc chặt chẽ với quan niệm chính trị. Do đó, để cải cách DNNN, Việt Nam không chỉ cần tìm kiếm câu trả lời ở trong các DNNN hay trong các quy định pháp luật, mà còn cần nhìn rộng hơn. Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ việc tiếp nhận mô hình DNNN kiểu Xô viết cũng nhắc nhở rằng, trong quá trình cải cách DNNN hiện nay, Việt Nam cần tránh những hậu quả không đáng có tương tự trong việc tiếp nhận các mô hình của các nước khác. Vụ điện kế điện tử Công ty Điện lực TP. HCM đã dành hợp đồng mua bán điện kế điện tử cho một số công ty tư nhân mà trong đó có người nhà của Phó Giám đốc Công ty Điện lực (Công ty gia đình). Nhưng sau đó, các “công ty gia đình” này đã mua 2 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II) Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam (Phần II) 2. Phân biệt giữa vay mượn và tiếp nhận chọn lọc Chúng tôi muốn chứng minh rằng, một mặt các quy định về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là ví dụ khá điển hình về sự vay mượn máy móc pháp luật nước ngoài vào hệ thống pháp luật quốc gia. Mặt khác, Luật Công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp (1999, 2005) của Việt Nam là ví dụ về tiếp nhận có chọn lọc, thành công. 2.1. Vay mượn: DNNN của Việt Nam - mô hình Xô viết DNNN Việt Nam là mô hình gần như sao chép mô hình của Liên Xô cũ (1). Mặc dù Luật DNNN 1995, sửa đổi năm 2003 đã có những nội dung được hoàn thiện hơn (2), nhưng trên thực tế, tinh thần của quan niệm Xô viết về DNNN (3) vẫn là cơ sở tư tưởng của DNNN ở Việt Nam, cấu trúc, chức năng của các doanh nghiệp này. Về mặt tư tưởng, DNNN là một hình thức của sở hữu nhà nước - hình thức sở hữu chính của chế độ XHCN. Về mặt chức năng, DNNN đóng vai trò “chủ đạo” trong nền kinh tế quốc dân. Và một điều nghịch lý nhưng dễ hiểu là mặc dầu kế hoạch hóa đã được xóa bỏ, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn mạnh mẽ dưới hình thức DNNN hiện nay (4). Về mặt cấu trúc, DNNN vẫn chịu sự kiểm soát của các bộ ngành và chính quyền các tỉnh /thành. Có lẽ, mô hình này tiếp tục được vay mượn để thể hiện nội dung “định hướng XHCN” trong câu “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Như đã nói, Việt Nam cố gắng kết hợp “XHCN” với “thị trường”, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn, nhiều khía cạnh vẫn chưa sáng tỏ. Chính sự lúng túng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong hoạt động và quá trình cải cách của DNNN (5). i. DNNN: gánh nặng của Nhà nước và người dân Vấn đề đầu tiên liên quan đến các khoản nợ khó đòi của DNNN. Nhiều doanh nghiệp này tiếp tục hoạt động với những khoản nợ đối tác và ngân hàng ngày càng tăng. Trong nhiều trường hợp, chúng lại được Nhà nước cho vay thêm tiền từ ngân hàng để trả nợ cũ, bởi lẽ với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước dĩ nhiên phải đứng ra chịu trách nhiệm về các khoản nợ đó (6). DNNN không chịu áp lực cải cách vì trái với khu vực tư nhân, các doanh nghiệp này không phải chịu áp lực đổ bể từ ngoài thị trường. Cuối cùng, người trả nợ chính là người dân. ii. Có tách bạch được chức năng? Vấn đề tiếp theo là việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh ở DNNN. Điều này hầu như không thực hiện được, bởi lẽ việc bổ nhiệm các chức danh quản lý cao nhất trong DNNN bị ảnh hưởng, nếu không nói là được quyết định bởi cấp chính quyền. Hơn nữa, nếu trao quyền sở hữu cho một cơ quan hành chính sẽ gặp phải vấn đề là làm thế nào để vượt qua sự phản đối của các bên bị ảnh hưởng về quyền lợi. Vấn đề này sẽ được chúng tôi bàn kỹ hơn trong Phần (III). iii. DNNN: Đục nước béo cò Mô hình thiếu sáng tỏ về sở hữu và quản lý DNNN đã tạo cơ sở cho tham nhũng hành động. Vụ điện kế điện tử có thể là một ví dụ điển hình cho nhiều vụ tương tự (xem hộp). Thực trạng hoạt động của các DNNN đòi hỏi chúng phải tuân theo các quy luật của thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho rằng, cần phải chuyển tài sản của DNNN cho các nhà đầu tư tư nhân, tức là bằng cách cổ phần hóa (7). Những tác giả khác như David Dapice khẳng định, mối ưu tiên tối thượng ở đây là phải tạo ra môi trường để nuôi dưỡng, phát triển những doanh nghiệp hiệu quả dù đó là DNNN, tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài (8). Còn theo kinh nghiệm được đúc kết trên thế giới, cải cách DNNN chỉ thực sự thành công ở những nước áp dụng tất cả các biện pháp có tính tổng thể, hỗ trợ lẫn nhau như tạo môi trường cạnh tranh, thắt chặt kiểm soát ngân sách DNNN, cải cách hệ thống tài chính… (9) Như vậy, dường như chỉ có một chiến lược tổng thể mới mang lại thành công thực sự đối với việc cải cách DNNN. Nói tóm lại, mặc dù khái niệm DNNN theo kiểu Xô viết được du nhập tự nguyện, nhưng nó lại không vận hành một cách suôn sẻ trong môi trường mới. Lý do rất đơn giản: trước hết, bản thân khái niệm gốc cũng chịu thất bại ở trên đất của nó. Thứ hai, triết lý của nó không phù hợp với các nguyên tắc của cơ chế thị trường như đã nói ở trên. Hơn nữa, có vẻ như sự cố gắng kết hợp khái niệm của XHCN về sở hữu và hợp đồng với các nguyên tắc thị trường khó mà thành công, vì bối cảnh mới (thị trường) nhiều lúc bị bỏ qua để ưu ái cho tư tưởng (XHCN). Trong quá trình cải cách DNNN, Việt Nam cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước phát triển như Hàn Quốc (10), Nhật Bản (11), OECD(12). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn không thể dứt bỏ hẳn với mô hình DNNN kiểu Xô viết. Như một số tác giả nhận xét, sau hơn một thập niên tồn tại, mô hình tổng công ty bắt chước một phần mô hình của Hàn Quốc và Nhật Bản đã cho thấy không phù hợp (13). Theo các tác giả, mô hình tổng công ty vẫn không giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và kinh doanh trong DNNN. Theo chúng tôi, ở đây cần xem xét vấn đề từ chiều ngược lại, nghĩa là: chính sự rắc rối trong mối quan hệ đó (được vay mượn từ mô hình nước ngoài) đã dẫn đến sự thiếu hiệu quả, không phù hợp của mô hình. Như luận điểm của Teubner về các mối ràng buộc chặt chẽ và lỏng lẻo của pháp luật với bối cảnh xã hội, trong trường hợp của DNNN ở Việt Nam, pháp luật có mối ràng buộc chặt chẽ với quan niệm chính trị. Do đó, để cải cách DNNN, Việt Nam không chỉ cần tìm kiếm câu trả lời ở trong các DNNN hay trong các quy định pháp luật, mà còn cần nhìn rộng hơn. Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ việc tiếp nhận mô hình DNNN kiểu Xô viết cũng nhắc nhở rằng, trong quá trình cải cách DNNN hiện nay, Việt Nam cần tránh những hậu quả không đáng có tương tự trong việc tiếp nhận các mô hình của các nước khác. Vụ điện kế điện tử Công ty Điện lực TP. HCM đã dành hợp đồng mua bán điện kế điện tử cho một số công ty tư nhân mà trong đó có người nhà của Phó Giám đốc Công ty Điện lực (Công ty gia đình). Nhưng sau đó, các “công ty gia đình” này đã mua 2 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
pháp luật nước ngoài Luật Công ty Khoa học pháp lý kinh nghiệm quốc tế nghiên cứu pháp luật cải cách tư pháp hệ thống pháp luật bộ máy nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 1004 4 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 312 0 0 -
Tổng hợp các vấn đề về Luật Dân sự
113 trang 287 0 0 -
Bài thuyết trình Chi trả dịch vụ môi trường: Kinh nghiệm quốc tế
19 trang 246 0 0 -
9 trang 232 0 0
-
6 trang 178 0 0
-
22 trang 150 0 0
-
CẢI CÁCH TÒA ÁN–TRỌNG TÂM CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP
4 trang 128 0 0 -
Cải cách tòa án ở Việt Nam: Kết quả và những vấn đề đặt ra
7 trang 122 0 0 -
30 trang 120 0 0