Tiếp tục hoàn thiện môi trường thế chế để thu hút FDI cho phát triển bền vững
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 429.99 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này nghiên cứu cơ sở lý thuyết là các quan điểm khác nhau về phát triển bền vững và kinh tế học thể chế để vận dụng phân tích quá trình hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam thời gian qua. Đã có nhiều thay đổi tích cực trong các thể chế chính thức, thể chế phi chức thức và việc thực thi các thể chế đó, đồng thời vẫn tồn tại những hạn chế trong các bộ phận cấu thành môi trường thể chế. Đó là cơ sở cho việc đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế trong tương lai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp tục hoàn thiện môi trường thế chế để thu hút FDI cho phát triển bền vững TIẾP TỤC HOÀN THIỆN MÔI TRƢỜNG THẾ CHẾ ĐỂ THU HÚT FDI CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG PGS. TS. Cao Thúy Xiêm PGS. TS. Trương Đoàn Thể Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Nhằm thu hút FDI phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cần đảm bảo môi trường thể chế thuận lợi. Bài viết này nghiên cứu cơ sở lý thuyết là các quan điểm khác nhau về phát triển bền vững và kinh tế học thể chế để vận dụng phân tích quá trình hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam thời gian qua. Đã có nhiều thay đổi tích cực trong các thể chế chính thức, thể chế phi chức thức và việc thực thi các thể chế đó, đồng thời vẫn tồn tại những hạn chế trong các bộ phận cấu thành môi trường thể chế. Đó là cơ sở cho việc đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế trong tương lai. I. GIỚI THIỆU Phát triển bền vững là mục tiêu của mọi xã hội văn minh. Phát triển bền vững là thỏa mãn nhu cầu hiện tại nhưng vẫn đóng góp cho việc thỏa mãn nhu cầu tương lai. Để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng cần phải đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế. Các lý thuyết tăng trưởng đến đầu thế kỷ 20 đều thống nhất về các yếu tố quyết định tăng kinh tế trong dài hạn là tư bản (hay vốn), lao động, công nghệ, kỹ năng và tài nguyên thiên nhiên. Lý thuyết kinh tế học thể chế đã bổ sung thêm một yếu tố là sự thay đổi cơ cấu. Bài viết này làm rõ các khái niệm phát triển bền vững, thể chế và vận dụng để đánh giá việc hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam, từ đó đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm thu hút FDI phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững. II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Khái niệm phát triển bền vững Một trong các khái niệm được đề cập nhiều nhất trong vài ba thập kỷ trở lại đây là khái niệm phát triển bền vững. Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai (Liên Hiệp Quốc, 1987). Hội nghị Thế giới năm 2005 của Liên Hiệp quốc đề cập đến ba trụ cột phụ thuộc lẫn nhau và củng cố lẫn nhau của phát triển bền vững là phát triển kinh tế, phát triển xã hội, và bảo vệ môi trường. Theo tuyên bố chung về đa dạng văn hóa (UNESCO, 2001) thì sự đa dạng văn hóa trở thành lĩnh vực chính sách thứ tư của phát triển bền vững. Theo Hasna Vancock, phát triển bền vững là một quá trình phát triển của tất cả các khía cạnh của đời sống con người ảnh hưởng đến nuôi dưỡng. Phát triển bền vững giải quyết mâu thuẫn giữa các mục tiêu mang tính cạnh tranh với nhau, gắn với việc theo đuổi đồng thời sự thịnh vượng kinh tế, chất lượng môi trường và công bằng xã hội (Hasna, A. M., 2007). Agyeman, và các tác giả khác (2003) đưa ra khái niệm tinh tế hơn về phát triển bền vững: sự cần thiết đảm bảo 235 chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả, bây giờ và trong tương lai, theo các cách công bằng khi sống trong giới hạn của các hệ sinh thái hỗ trợ. Quan niệm phát triển bền vững nhấn mạnh như nhau vào bốn điều kiện: cải thiện chất lượng cuộc sống và phúc lợi; việc đáp ứng nhu cầu của cả thế hệ hiện tại và tương lai (công bằng trong thế hệ và giữa các thế hệ); sự công nhận công lý và công bằng (Schlosberg, 1999), quy trình, cách thức và kết quả, và sự cần thiết để chúng ta sống trong giới những giới hạn của hệ sinh thái (Agyeman, 2005). Michael Thomas Needham (một nhà giáo dục về phát triển bền vững) cho rằng phát triển bền vững là khả năng đáp ứng các nhu cầu hiện tại trong khi vẫn đóng góp cho nhu cầu của các các thế hệ tương lai. Như vậy có sự nhấn mạnh thêm vào trách nhiệm của thế hệ hiện tại phải cải thiện cuộc sống của thế hệ tương lai bằng cách sửa chữa những thiệt hại trước đây đối với hệ sinh thái và chống lại những gì có thể gây thiệt hại hơn nữa cho hệ sinh thái. 2.2 Khái niệm thể chế và vai trò của thể chế đối với sự phát triển kinh tế Những khác biệt to lớn trong mức sống giữa các quốc gia được giải thích bởi sự khác biệt năng suất. Mà năng suất của mỗi quốc gia lại được quyết định bởi các yếu tố tư bản (hay vốn), lao động, công nghệ, kỹ năng, tài nguyên thiên nhiên và sự thay đổi cơ cấu. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng kiến những tiến bộ lớn lao về công nghệ và tổ chức. Những tiến bộ đó phụ thuộc vào sự tiến hóa của các thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích lũy tư bản và thực hiện các giao dịch thị trường. Sự tự do kinh tế, dân sự, chính trị, và các khung khổ thể chế tạo thuận lợi cho sự tin tưởng lẫn nhau nhờ đó tạo ra sự thịnh vượng kinh tế. Các quá trình kinh tế và hành vi kinh tế đã được khái quát hóa trong kinh tế học tân cổ điển. Tuy nhiên, những gì đang diễn trong thực tế rất khó được giải thích một cách thỏa mãn bằng việc vận dụng kinh tế học tân cổ điển. Kinh tế học thể chế đã đưa môi trường thể chế vào kinh tế học tân cổ điển để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những khác biệt lớn trong sự thịnh vượng kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới. Vậy thể chế là gì? Thể chế ảnh hưởng như thế nào đến việc ra quyết định kinh tế? “Thể chế là các ràng buộc do con người nghĩ ra, những ràng buộc đó định hình tương tác chính trị, kinh tế và xã hội” (North 1991, trang 97). Các thể chế bao gồm: Các thể chế kinh tế (quyền tài sản, thực thi hợp đồng v.v.) định hình các động cơ kinh tế, các khả năng hợp đồng, và phân phối. Các thể chế chính trị (hình thức chính thể, những ràng buộc đối với các chính trị gia và các tầng lớp tinh hoa, sự phân chia quyền lực v.v.) định hình các động cơ chính trị và phân phối quyền lực chính trị. Các ràng buộc (hay các thể chế) bao gồm thể chế chính thức và phi chính thức. Các thể chế chính th ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếp tục hoàn thiện môi trường thế chế để thu hút FDI cho phát triển bền vững TIẾP TỤC HOÀN THIỆN MÔI TRƢỜNG THẾ CHẾ ĐỂ THU HÚT FDI CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG PGS. TS. Cao Thúy Xiêm PGS. TS. Trương Đoàn Thể Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Nhằm thu hút FDI phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cần đảm bảo môi trường thể chế thuận lợi. Bài viết này nghiên cứu cơ sở lý thuyết là các quan điểm khác nhau về phát triển bền vững và kinh tế học thể chế để vận dụng phân tích quá trình hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam thời gian qua. Đã có nhiều thay đổi tích cực trong các thể chế chính thức, thể chế phi chức thức và việc thực thi các thể chế đó, đồng thời vẫn tồn tại những hạn chế trong các bộ phận cấu thành môi trường thể chế. Đó là cơ sở cho việc đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế trong tương lai. I. GIỚI THIỆU Phát triển bền vững là mục tiêu của mọi xã hội văn minh. Phát triển bền vững là thỏa mãn nhu cầu hiện tại nhưng vẫn đóng góp cho việc thỏa mãn nhu cầu tương lai. Để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng cần phải đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế. Các lý thuyết tăng trưởng đến đầu thế kỷ 20 đều thống nhất về các yếu tố quyết định tăng kinh tế trong dài hạn là tư bản (hay vốn), lao động, công nghệ, kỹ năng và tài nguyên thiên nhiên. Lý thuyết kinh tế học thể chế đã bổ sung thêm một yếu tố là sự thay đổi cơ cấu. Bài viết này làm rõ các khái niệm phát triển bền vững, thể chế và vận dụng để đánh giá việc hoàn thiện môi trường thể chế ở Việt nam, từ đó đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm thu hút FDI phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững. II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Khái niệm phát triển bền vững Một trong các khái niệm được đề cập nhiều nhất trong vài ba thập kỷ trở lại đây là khái niệm phát triển bền vững. Phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai (Liên Hiệp Quốc, 1987). Hội nghị Thế giới năm 2005 của Liên Hiệp quốc đề cập đến ba trụ cột phụ thuộc lẫn nhau và củng cố lẫn nhau của phát triển bền vững là phát triển kinh tế, phát triển xã hội, và bảo vệ môi trường. Theo tuyên bố chung về đa dạng văn hóa (UNESCO, 2001) thì sự đa dạng văn hóa trở thành lĩnh vực chính sách thứ tư của phát triển bền vững. Theo Hasna Vancock, phát triển bền vững là một quá trình phát triển của tất cả các khía cạnh của đời sống con người ảnh hưởng đến nuôi dưỡng. Phát triển bền vững giải quyết mâu thuẫn giữa các mục tiêu mang tính cạnh tranh với nhau, gắn với việc theo đuổi đồng thời sự thịnh vượng kinh tế, chất lượng môi trường và công bằng xã hội (Hasna, A. M., 2007). Agyeman, và các tác giả khác (2003) đưa ra khái niệm tinh tế hơn về phát triển bền vững: sự cần thiết đảm bảo 235 chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả, bây giờ và trong tương lai, theo các cách công bằng khi sống trong giới hạn của các hệ sinh thái hỗ trợ. Quan niệm phát triển bền vững nhấn mạnh như nhau vào bốn điều kiện: cải thiện chất lượng cuộc sống và phúc lợi; việc đáp ứng nhu cầu của cả thế hệ hiện tại và tương lai (công bằng trong thế hệ và giữa các thế hệ); sự công nhận công lý và công bằng (Schlosberg, 1999), quy trình, cách thức và kết quả, và sự cần thiết để chúng ta sống trong giới những giới hạn của hệ sinh thái (Agyeman, 2005). Michael Thomas Needham (một nhà giáo dục về phát triển bền vững) cho rằng phát triển bền vững là khả năng đáp ứng các nhu cầu hiện tại trong khi vẫn đóng góp cho nhu cầu của các các thế hệ tương lai. Như vậy có sự nhấn mạnh thêm vào trách nhiệm của thế hệ hiện tại phải cải thiện cuộc sống của thế hệ tương lai bằng cách sửa chữa những thiệt hại trước đây đối với hệ sinh thái và chống lại những gì có thể gây thiệt hại hơn nữa cho hệ sinh thái. 2.2 Khái niệm thể chế và vai trò của thể chế đối với sự phát triển kinh tế Những khác biệt to lớn trong mức sống giữa các quốc gia được giải thích bởi sự khác biệt năng suất. Mà năng suất của mỗi quốc gia lại được quyết định bởi các yếu tố tư bản (hay vốn), lao động, công nghệ, kỹ năng, tài nguyên thiên nhiên và sự thay đổi cơ cấu. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng kiến những tiến bộ lớn lao về công nghệ và tổ chức. Những tiến bộ đó phụ thuộc vào sự tiến hóa của các thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích lũy tư bản và thực hiện các giao dịch thị trường. Sự tự do kinh tế, dân sự, chính trị, và các khung khổ thể chế tạo thuận lợi cho sự tin tưởng lẫn nhau nhờ đó tạo ra sự thịnh vượng kinh tế. Các quá trình kinh tế và hành vi kinh tế đã được khái quát hóa trong kinh tế học tân cổ điển. Tuy nhiên, những gì đang diễn trong thực tế rất khó được giải thích một cách thỏa mãn bằng việc vận dụng kinh tế học tân cổ điển. Kinh tế học thể chế đã đưa môi trường thể chế vào kinh tế học tân cổ điển để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những khác biệt lớn trong sự thịnh vượng kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới. Vậy thể chế là gì? Thể chế ảnh hưởng như thế nào đến việc ra quyết định kinh tế? “Thể chế là các ràng buộc do con người nghĩ ra, những ràng buộc đó định hình tương tác chính trị, kinh tế và xã hội” (North 1991, trang 97). Các thể chế bao gồm: Các thể chế kinh tế (quyền tài sản, thực thi hợp đồng v.v.) định hình các động cơ kinh tế, các khả năng hợp đồng, và phân phối. Các thể chế chính trị (hình thức chính thể, những ràng buộc đối với các chính trị gia và các tầng lớp tinh hoa, sự phân chia quyền lực v.v.) định hình các động cơ chính trị và phân phối quyền lực chính trị. Các ràng buộc (hay các thể chế) bao gồm thể chế chính thức và phi chính thức. Các thể chế chính th ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế bền vững Kinh tế học thể chế Chính sách thu hút FDI Luật Đầu tư Luật Doanh nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị
32 trang 379 0 0 -
8 trang 350 0 0
-
Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam
4 trang 245 0 0 -
Những quy định trong luật cạnh tranh
40 trang 244 0 0 -
Luật chứng khoán Nghị định số 114/2008/NĐ - CP
10 trang 224 0 0 -
8 trang 207 0 0
-
6 trang 198 0 0
-
Đổi mới tư duy về phát triển bền vững: Nhìn từ hai cách tiếp cận phát triển bền vững
5 trang 176 0 0 -
Cần đào tạo kiến thức kinh tế thị trường và phát triển bền vững cho cán bộ cấp cơ sở vùng Tây Bắc
7 trang 171 0 0 -
0 trang 171 0 0