Danh mục

TIỂU LUẬN: Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản

Số trang: 36      Loại file: pdf      Dung lượng: 488.85 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nền sản xuất trong nước, trong những năm qua Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với hơn 200 quôc gia trên thế giới, tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế như Asean, AFTA, WTO …nhưng sự tham gia này vẫn dừng ở phạm vi nhỏ, hẹp cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng.Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TIỂU LUẬN: Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản TIỂU LUẬN:Giải pháp của các bộ ban ngành nhà nước về xuất khẩu thuỷ hải sản A) Phần mở đầu I) Giới thiệu sơ qua về đề tài nghiên cứu và tình hình xuất khẩu ở Việtnam Thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nền sảnxuất trong nước, trong những năm qua Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác vớihơn 200 quôc gia trên thế giới, tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và quốc tếnhư Asean, AFTA, WTO …nhưng sự tham gia này vẫn dừng ở phạm vi nhỏ, hẹp cảvề lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng.Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đạihoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hộichủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tếquốc tế.Bởi vậy nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII, IX và X đều khẳng định phải‘’ đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới’’, với quy mô rộng hơnvà trình độ cao hơn. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thếđứng mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không côngbằng. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹthuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đấtnước. Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới mở rộng được thị trường xuấtnhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh môt vài những lợi thế mà ta có được như nguồn lao động, tàinguyên.. thì là muôn vàn những khó khăn : xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp,đang trong quá trình chuyển đổi, nền kinh tế thị trường còn ở giai đoạn sơ khai, cácyếu tố cơ bản, đồng bộ của một thị trường chưa phát triển đầy đủ. Điều đó dẫn đếnkhả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém.Thị trường thế giới để hang hoá nước taxâm nhập còn hạn hẹp do những yêu cầu gắt gao.Trong bối cảnh tự do buôn bán, tựdo đầu tư, chúng ta đang ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hang hoá chonước ngoài. Do đó chính phủ, bộ ngành mà trực tiếp là các doanh nghiệp sản xuấtkinh doanh trong nước cần có những biện pháp cải thiện tình hình cả trước mắt vàlâu dài nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hoá nướcngoài và tìm kiếm thị trường bên ngoài đẩy mạnh xuất khẩu hang hoá. Thực tế sau hơn 20 năm chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang cơchế thị trường mở cửa hội nhập, chỉ tiêu xác định mức độ mở cửa hội nhập là giá trịxuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ đã có những bước tiến rõ nét. Cụ thể tổng mức lưuchuyển hang hoá xuất nhập khẩu bình quân từ 1986 đến 2005 là 20,7 tỷ USD/ năm (gấp 7 lần năm 1985).Tốc độ tăng trưởng của các thời kì rất cao, thời kì từ 1996 đến2000 tăng gấp gần 3 lần 5 năm trước đó và đạt trên 100 tỷ USD ( tốc độ tăng bìnhquân mỗi năm là 17,2%), thời kì 2001-2005 tăng hơn 2 lần giai đoạn trước, đạt 241tỷ USD( tốc độ tăng mỗi năm là 18,2%).Trong đó khu vực kinh tế trong nước giaiđoạn đầu 1986-1990 có vai trò chủ đạo chiếm tới 96,6% tong giá trị xuất nhậpkhẩu.Tính từ 1986-2005, tốc độ tăng của xuất khẩu là 21,2% mỗi năm, kim ngạchxuất khẩu tăng gần 40 lần từ 789 triệu USD năm 1986 lên 32,4 tỷ USD năm 2005,tỷ trọng xuất khẩu so với tổng mức lưu chuyển tăng dần từ 35,7%(giai đoạn 1986-1990) lên 46%(giai đoạn 2001-2005). Do tốc độ tăng trưởng ở mỗi thời kì của xuất khẩu và nhập khẩu có sự ngượcnhau về xu hướng nên ảnh hưởng đến cân đối thương mại. Giai đoạn 1986-1995mức nhập siêu khoảng 5,6 tỷ USD.Từ 1996 đến 2000 mức nhập siêu tăng gấp gần 2lần lên 9,8 tỷ USD.Giai đoạn 2001-2005 là 19,3 tỷ USD.Tuy nhiên tỷ lệ nhập siêuqua từng giai đoạn so với xuất khẩu giảm mạnh từ 80,4% trong giai đoạn 1986-1990 xuống 17,4% giai đoạn 2001-2005. Cùng với sự tăng trưởng về quy mô, các đơn vị tham gia xuất nhập khẩu cũngtăng lên nhanh chóng.Trước năm 1989 hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu do một sốđơn vị chuyên doanh ngoại thương của nhà nước thực hiện, nhưng đến nay tất cảcác loại hình doanh nghiệp đều tham gia xuất nhập khẩu.Tỷ trọng xuất khẩu củakhu vực có vốn đầu tư nước ngoài lien tục tăng qua các giai đoạn, giai đoạn 1991-1995 chiếm 17,1%, giai đoạn 1996-2000 chiếm 31,5%, giai đoạn 2001-2005 chiếm42,8%. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội và nguy cơ đòi hỏi các doanhnghiệp xuất khẩu phải nắm chắc tình hình, đưa ra những dự báo, xây dựng kếhoạch, chiến lược mở rộng thị trường, đẩy mạnh và nâng cao giá trị xuất khẩu nhằmđóng góp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước . B) Nội dung nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận về vấn đề xuất khẩu 1.1) Lý do nghiên cứu về xuất khẩu Nghị quyết đại hội Đảng đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách vĩ mô nhằmđạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, tạo tiền đề cho phát triển, đưa nền kinh tế sớm đạtmục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng t ...

Tài liệu được xem nhiều: