Danh mục

TIỂU LUẬN: Lịch sử triết học Trung Quốc

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 343.15 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 6,500 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giai cấp xuất hiện trong xã hội cổ đại Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên. Vào cuối thiên niên kỷ này, ở Trung Quốc đã xuất hiện các biểu tượng tôn giáo, như “đế”, “thượng đế”, “thiên mệnh”, “quỷ thần”. Đầu thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên, đời Tây Châu, đã xuất hiện các biểu tượng triết học như “âm dương”, “ngũ hành” (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Trên cơ sở những biểu tượng tôn giáo và triết học đó, từ thế kỷ VI đến thế kỷ III trước công nguyên, thời...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TIỂU LUẬN: Lịch sử triết học Trung Quốc TIỂU LUẬN:Lịch sử triết học Trung Quốc Giai cấp xuất hiện trong xã hội cổ đại Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trướccông nguyên. Vào cuối thiên niên kỷ này, ở Trung Quốc đã xuất hiện các biểu tượngtôn giáo, như “đế”, “thượng đế”, “thiên mệnh”, “quỷ thần”. Đầu thiên niên kỷ thứ Itrước công nguyên, đời Tây Châu, đã xuất hiện các biểu tượng triết học như “âmdương”, “ngũ hành” (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Trên cơ sở những biểu tượng tôngiáo và triết học đó, từ thế kỷ VI đến thế kỷ III trước công nguyên, thời kỳ quá độ từchế độ chiếm hữư nô lệ sang phong kiến , ở Trung Quốc hình thành nhiều học thuyếtchính trị xã hội và triết học khác nhau . Khổng Tử với học thuyết “nhân lễ”, Lão Tửvới học thuyết “vô vi”, Mặc Tử với học thuyết “kiêm ái”, Dương Chu với học thuyết“vị ngã”, Hàn Phi Tử với học thuyết “pháp trị” …lần lượt ra đời và đấu tranh vớinhau để khẳng định vị trí của minh trong xã hội. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc, xây dựng quốc gia phong kiến rộng lớn, đãdùng học thuyết Pháp gia để trị nươc. Nhà Hán thay thế nhà Tần thì lên án Pháp giavà tôn sùng Nho giáo. Từ thời hán trở đi, các triều đại phong kiến Trung Quốc đãxem Nho giáo là học thuyết thống trị. Nhưng thực ra Nho giáo đó đã thay đổi nhiềuso với gốc của nó. Nhà Hán trên danh nghĩa thì tôn sùng Nho giáo, nhưng bên trongđã dùng tư tưởng Pháp gia để trị nước. Nho đến thế kỷ III sau công nguyên kết hợpvới Lão – Trang trở thành huyền học, đến thế kỷ X sau công nguyên, kết hợp vớiPhật và Đạo trở thành lý học. Bên cạnh Nho giáo thì đạo Lão – Trang và đạo Phật dunhập từ ấn Độ vào cũng có vai trò chi phối hệ tư tưởng của Trung Quốc suốt hainghìn năm. Nếu ở Hy Lạp – La Mã thời cổ đại, triết học gắn bó mật thiết với khoa học tựnhiên, ở ấn Độ triết học đi liền với tôn giáo, thì ở Trung Quốc cổ đại, triết học xenlẫn với chính trị và luân lý. ở đó, triết học lấy chính trị, luân lý làm cơ sở phát triểnvà ngược lại chính trị và luân lý lấy triết học làm cơ sở lý luận. Tình trạng đó làm chotriết học Trung Quốc thuộc loại hình chính trị – luân lý, à nhà triết học thuộc dạngngười hiền. Cũng vì thế mà có người nói Trung Quốc chỉ có triết lý, không có triếthọc. Sự đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứngvà phép siêu hình là quyluật phát triển của mọi hệ thống triết học, trong đó có triếthọc Trung Quốc.Nhưng sự đấu tranh đó cũng như sự thay thế của các trường pháitriết học, sự phát triển của các luận điểm tư tưởng Trung Quốc được biểu hiện trêncác vấn đề ít nhiều có sắc thái bản địa: vấn đề bản thể vũ trụ, vấn đề cơ bản của triếthọc, vấn đề con người, vấn đề biến dịch, vấn đề tri thức luận và vấn đề đạo đức luận. Bản thể của vũ trụ là gì? Hay nói cách khác thế giới vật chất do đâu sinh ra?Là những vấn đề xuất hiệ ngay từ đầu và quán xuyến trong lịch sử triết học TrungQuốc được cả hai trường phái duy vật và duy tâm chú ý và tìm cách giải đáp. Trườngphái duy tâm thì cho rằng, thế giới bên ngoài là do trời, thượng đế sinh ra và conngười cũng là do trời sinh ra, số phận con người là do trời quy định. Chủ nghĩa duyvật thì có quan điểm trái lại, nhưng trong họ cũng có nhiều sự giải thích khác nhau.“Kinh dịch” (thời nhà Chu) cho rằng sự giao cảm giữa âm và dương sinh ra trời đất,vạn vật; “Thiên Hồng Phạm” trong “Kinh Thư” (thời nhà Chu) cho rằng: “Ngũ hành”(kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) tương sinh tương khắc làm nên vạn vật; Lão tử (thời XuânThu – Chiến quốc) cho rằng: “đạo” là nguồn gốc của vạn vật, ”đạo sinh một, mộtsinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật” (Đạo đức kinh); Tuân Tử (thời Chiến Quốc chorằng, trời đất hợp lại là nguồn gốc của vạn vật: “trời đất hợp lại thì vạn vật sinh ra,âm dương giao tiếp với nhau thì sinh biến hóa” (Tuân Tử – Lễ luận); Vương Sùngđời Hán thì cho nguyên khí là yếu tố đầu tiên của thế giới vật chấ; Trương Tải thờiTống thì cho “thái hư” là nguồn gốc của vũ trụ; Đàm Tự Đồng, Khang Hữu Vi thìcho ete là gốc đầu tiên của vạn vật. Trong các luận điểm thì luận điểm “ngũ hànhtương sinh tương khắc” là nguyên khí vận động sinh ra trời đất vạn vật là có vai tròlớn trong lịch sử . Bằng các luận điêm trên, chủ nghiã duy vật đã đối địch lại chủ nghĩa duy tâm.Qua việc lấy vật chất hoặc sự vận động của vật chất để giải thích nguồn gốc của cáchiên tượng vật chất, các nhà duy vật đã làm lu mờ vai trò của thần thánh, vai trò củalực lượng siêu nhiên, những lực luợng mà chủ nghĩa duy tâm tôn giáo tạo ra và luôndựa vào đó. Nhưng luận điểm của các nhà duy vật Trung Quốc có nhược điểm: lấymột hoặc vài yếu tố vật chất để giải thích tính muôn hình muôn vẻ của thế giới kháchquan là một vấn đề còn có tính trực quan, ước đoán, chưa có sự chứng minh cụ thể.Do đó chưa khuất phục được chủ nghĩa duy tâm, chưa giải phóng con người khỏinhững quan điểm duy tâm thần bí và sự áp chế của phong kiến. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tự nhiên và tinh thần mà khoa họchiện đạ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: