Danh mục

TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Số trang: 122      Loại file: pdf      Dung lượng: 883.59 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: vấn đề con người trong học thuyết mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CHO SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Trong bài viết này, học thuyết Mác về con người đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ quan niệm của ông về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện phương hướng đó. Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về con người, bản chất con người. Tư tưởng triết học Cổ đại chủ yếu coi con người là một bộ phận của vũ trụ, là một thứ tiểu vũ trụ nào đó luôn phục tùng một khởi nguyên tối cao là số phận. Kitô giáo, ngay từ đầu, đã coi con người là một thực thể có hai bản nguyên gắn liền và mâu thuẫn nhau là tinh thần và thể xác. Trong thời Cận đại, triết học duy tâm (tiếp theo Kitô giáo) đã nhìn nhận con người trước hết ở bản chất tinh thần của nó, nghiên cứu bản tính con người theo chủ nghĩa tự nhiên và thừa nhận quyền tự trị của lý tính con người trong việc nhận thức bản chất của mình. Triết học duy tâm thế kỷ XIX đã tuyệt đối hoá yếu tố tinh thần trong con người, quy bản chất con người về cơ sở lý tính. Quan điểm này được thể hiện rõ nét trong triết học Hêghen. Khác với Hêghen - đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm khách quan, C.Mác cho rằng, “cơ sở hiện thực” của con người là “tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(1). Do vậy, theo ông, muốn nhận thức con người phải hiểu “những cá nhân con người sống”, phương thức sinh sống của họ với tư cách hoạt động và hành vi hoạt động đầu tiên của họ là sản xuất vật chất – phương diện cơ bản của đời sống xã hội(2). Và, chỉ bằng cách ấy, những cá nhân con người mới trở thành con người hiện thực. Tính hiện thực của con người thể hiện ở sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn của nó.“Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”(3). Xuất phát từ cơ sở hiện thực của con người, C.Mác đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người, về con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội, với tư cách nhân cách và về vị trí, vai trò của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại. Điều kiện quyết định của sự hình thành con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác là lao động. Lao động xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật thành con người. Trong lao động, con người thường xuyên biến đổi những điều kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những nhu cầu thường xuyên phát triển của mình, xây dựng nên thế giới văn hoá vật chất và tinh thần của mình. Nền văn hoá do con người sáng tạo ra như thế nào thì nền văn hoá ấy lại tạo ra con người như vậy. Hoạt động lao động phát triển làm biến đổi toàn bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Về mặt xã hội, lao động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất xã hội của con người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng giá trị, thế giới quan… Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải tạo bản năng con người trên hai bình diện là bắt bản năng phục tùng sự kiểm soát của lý trí và cải tạo bản năng thành trạng thái mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm xuất hiện một loài sinh vật mới - Homo sapiens (người khôn) mà ngay từ đầu, nó đã thể hiện tính xã hội và lý trí. Nhấn mạnh tính phổ biến của yếu tố xã hội trong con người, C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” (Chúng tôi nhấn mạnh – H.Đ.C)(4). Bản chất con người không phải là “cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta nghĩ, mà có tính lịch sử – cụ thể. Nghĩa là, nội dung của bản chất ấy, tuy về căn bản là có tính xã hội, song tính xã hội ấy lại có sự biến đổi tuỳ theo nội dung cụ thể của thời đại, của hoàn cảnh xã hội – văn hoá,… Tổng hợp những nét bản chất của con người, có thể nói, con người là một thực thể có lý tính, là chủ thể của lao động, của những quan hệ xã hội và giao tiếp. Trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội. Thông qua cấu trúc này, C.Mác đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người – tự nhiên – xã hội. C.Mác không phủ nhận mặt sinh học khi xem xét con người với tư cách “những cá nhân sống”. Ông cho rằng, “điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy” và mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy”(5). Mặt sinh học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng hình thái – sinh lý học, di truyền học, các quá trình thần kinh – não và một số quá trình khác của cơ thể con người. C.Mác không thừa nhận quan điểm coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học. Mặt xã hội là nói về thế giới tinh thần bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và vô thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,… Mỗi mặt riêng rẽ trên không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh thể của nó. Khi chúng ta tiếp cận con người với tư cách một thực thể có lý tính, thì lý tính (tư duy) của con người là một hiện tượng sinh học – tâm lý – ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: