Danh mục

Tiểu luận: VỤ TRANH CHẤP THỀM LỤC ĐỊA BIỂN AEGEAN GIỮA HI LẠP VÀ THỔ NHĨ KỲ

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.77 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bản đồ khu vực Biển Aegean Vụ việc mở đầu bằng sự kiện: vào ngày 1/11/1973, thông qua cơ quan ngôn luận của mình, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ (TNK) đã cho phép công ty khai thác dầu mỏ Thổ Nhĩ Kỳ được khai thác dầu trên 27 khu vực ở thềm lục địa biển Aegean. Theo như tuyên bố này, các tàu của Thổ Nhĩ Kỳ có thể thăm dò và khai thác nguồn dầu mỏ ở vùng thềm lục địa nằm giữa địa phận hai nước Thổ Nhĩ Kỳ và Hi Lạp. Sau đó, ngày 7/2/1974, chính phủ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: VỤ TRANH CHẤP THỀM LỤC ĐỊA BIỂN AEGEAN GIỮA HI LẠP VÀ THỔ NHĨ KỲ Tiểu luận VỤ TRANH CHẤP THỀM LỤC ĐỊA BIỂN AEGEAN GIỮA HI LẠP VÀ THỔ NHĨ KỲ Bản đồ khu vực Biển Aegean Vụ việc mở đầu bằng sự kiện: vào ngày 1/11/1973, thông qua cơ quan ngôn luận của mình, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ (TNK) đã cho phép công ty khai thác dầu mỏ Thổ Nhĩ Kỳ được khai thác dầu trên 27 khu vực ở thềm lục địa biển Aegean. Theo như tuyên bố này, các tàu của Thổ Nhĩ Kỳ có thể thăm dò và khai thác nguồn dầu mỏ ở vùng thềm lục địa nằm giữa địa phận hai nước Thổ Nhĩ Kỳ và Hi Lạp. Sau đó, ngày 7/2/1974, chính phủ Hi Lạp đã gửi Công hàm cho Thổ Nhĩ Kỳ đặt câu hỏi về giá trị của tuyên bố trước đó từ phía Thổ Nhĩ Kỳ và chính thức bày tỏ quan điểm về quyền chủ quyền của Hi Lạp với khu vực mà trong tuyên bố của mình, Thổ Nhĩ Kỳ đã cho là những khu vực mà họ có quyền khai thác dầu. Cùng là khu vực thềm lục địa Biển Egee, cả Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ đều tuyên bố chủ quyền của mình. Vấn đề đã thực sự nảy sinh. Thời gian tiếp sau đó, hai nước liên tục trao đổi các Công hàm thể hiện quan điểm của vấn đề này. Hi Lạp không ngừng tuyên bố những khu vực đó là vùng thêm lục địa của mình, vì thế Thổ Nhĩ Kỳ không được phép đưa tàu vào thăm dò và khai thác tài nguyên ở đó. Thổ Nhĩ Kỳ thì khẳng định những khu vực đó là vùng thềm lục địa của mình, đồng ý cho các tàu của Thổ vào khai thác nguồn dầu mỏ ở đây. Sau thời gian bày tỏ quan điểm của mình bằng các công hàm, hai nước đã quyết định là giải quyết mâu thuẫn này bằng con đường ngoại giao đàm phán. Kể từ năm 1975, hai nước đã có những cuộc tiếp xúc với các đại diện là đại sứ. Thổ Nhĩ Kỳ giữ quan điểm giải quyết mâu thuẫn bằng hòa giải, trong khi Hi Lạp đề nghị đưa vấn đề phân định biên giới trên vùng thềm lục địa biển Aegean lên Tòa án Công lý quốc tế. Thổ Nhĩ Kỳ đề nghị rằng các cuộc gặp cấp cao giữa hai nước nên được tổ chức. Với đề nghị này, Hi Lạp đồng ý với yêu cầu trong những cuộc gặp cấp cao thời gian tới, hai nước sẽ cùng nhau thống nhất đưa ra một thỏa thuận đặc biệt (special agreement) để đệ trình vấn đề này lên tòa án ICJ. Cuộc gặp cấp cao giữa thủ tướng hai nước được tổ chức ở Rome 17-19/5/1975. Phía Hi Lạp đưa ra một bản thảo văn bản thỏa hiệp trong khi đàm phán. Phía Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố họ sẽ không bàn bạc về bản thảo này, hai nước chỉ cần đàm phán trước đã. Cuộc gặp cấp cao này kết thúc với Tuyên bố chung của hai nước được công bố trước báo giới ngày 19/5/1975. Sau đó, hai nước lại tiến hành cuộc gặp cấp cao ở Brussels, Bỉ, và đưa ra Thông cáo chung ngày 31/5/1975, với nội dung là hai bên quyết định rằng những vấn đề giữa hai nước sẽ được giải quyết một cách hòa bình và những vấn đề có liên quan đến thềm lục địa biển Aegean sẽ được đưa lên tòa án ICJ. Theo những thỏa thuận khác đạt được sau cuộc gặp ở Brussels, hai nước sẽ ấn định ngày để các chuyên gia về thềm lục địa gặp gỡ, trao đổi thông tin. Cuộc gặp đó ấn định là 25-27/9/1975 ở Paris nhưng đến phút cuối Thổ Nhĩ Kỳ hoãn lại. Quá trình sau đó, sự việc ngày càng phức tạp khi phía Thổ luôn yêu cầu rằng vụ việc phân định ranh giới thềm lục địa hai nước đang tranh chấp cần được giải quyết trong hòa bình bằng các buổi tiếp xúc đàm phán có hiệu quả, chứ không phải là soạn thảo ra thỏa thuận đặc biệt đưa vụ việc lên tòa ICJ, theo ý kiến của Hi Lạp. Hai nước đã tiếp tục gặp gỡ, các chuyên gia đã trao đổi ý kiến, nhưng chưa đưa ra được sự thống nhất nào về xác định quyền chủ quyền của thềm lục địa. Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ cho tàu của nước mình bắt đầu tiến hành thăm dò để khai thác dầu mỏ tại khu vực hai nước còn đang tranh chấp. Phía Hi Lạp phản đối bằng cách đệ đơn lên tòa ICJ vào ngày 10/10/1976 và sau đó gửi cho Tòa bản Memorial, tranh tụng miệng trước Tòa, trong khi đó phía Thổ không có bản Counter-Memorial và không xuất hiện trước tòa. Hi Lạp thừa nhận thẩm quyền của Tòa, Thổ Nhĩ Kỳ phủ nhận thẩm quyền của tòa. Vấn đề được đặt ra ý kiến của tòa ra sao về việc tòa có hay không có thẩm quyền can thiệp vào vụ tranh chấp lãnh thổ trên biển giữa hai nước. Trong phán quyết của tòa, có hai cơ sở văn bản mà tòa sử dụng để diễn giải cho phán quyết của mình. Thứ nhất là những điều khoản trong Điều ước quốc tế mà hai nước đều là thành viên, trong đó có điều 17 Quy chế chung của Hiệp ước hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế 1928 ( Article 17 of the General Act for the Pacific Settlement of International Disputes 1928), cùng với điều 36 khoản 1 và điều 37 Quy chế tòa án quốc tế. Thứ hai là Thông cáo chung giữa hai nước vào ngày 31/5/1975 tại Brussels, hay còn gọi là Thông cáo chung Brussels. Có nội dung phù hợp với điều 36 Quy chế tòa án quốc tế, hai nước sau khi trao đổi quan điểm đã cùng tuyên bố rằng: “ They [the two Prime Ministers] decided that those problems [between the two countries] should be resolved peacefully by means of negotiations and as regards the continental shelf of the Aegean Sea by the International Court at The Hague.' Do phạm vi bài chỉ phục vụ cho mục tiêu trả lời câu hỏi “Liệu một thông cáo chung có thể mang tính ràng buộc với các hai tham gia tranh chấp hay không?”, nên phần sau bài viết sẽ là trình bày cơ sở lý lẽ của hai bên cũng như phán quyết của tòa về tính ràng buộc của Thông cáo chung Brussels 31/5/1975 và rút ra bài học từ phán quyết ấy. II. Lập luận của Hy Lạp: Hy Lạp cho rằng một thông cáo chung có thể cấu thành nên một thỏa thuận có giá trị ràng buộc pháp lý giữa hai bên liên quan và Thông cáo chung Brussels 31/5/1975 đã trao cho Tòa án quốc tế tại Lahay quyền xét xử tranh chấp về thềm lục địa biển Aegean giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn nữa, nó coi việc đưa ra một thông cáo chung như một nghi thức hiện đại yêu cầu quan hệ pháp lý đầy đủ trong thực tiễn quốc tế. Hy Lạp lập luận thêm rằng điều kiện cần và đủ là một thông cáo có thể trở thành một thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý thì ngoài việc nó có hình thức thông thường (customary forms) thì nó còn phải bao gồm sự cam kết của ha ...

Tài liệu được xem nhiều: