![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Tiểu luận: Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 222.64 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đặc điểm của các quy phạm về nhân quyền Các quy phạm về nhân quyền chủ yếu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và chính phủ. Cụ thể các quy phạm này quy định nghĩa vụ quốc tế của các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm các nhân quyền của mọi cá nhân trên lãnh thổ hoặc trong phạm vi thẩm quyền của các quốc gia đó. Nhân quyền bao gồm các quy phạm hình thành một tiêu chuẩn tối thiểu hơn là đưa ra các yêu cầu tốt nhất. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền Tiểu luận Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền I. Đặc điểm của các quy phạm về nhân quyền Các quy phạm về nhân quyền chủ yếu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và chính phủ. Cụ thể các quy phạm này quy định nghĩa vụ quốc tế của các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm các nhân quyền của mọi cá nhân trên lãnh thổ hoặc trong phạm vi thẩm quyền của các quốc gia đó. Nhân quyền bao gồm các quy phạm hình thành một tiêu chuẩn tối thiểu hơn là đưa ra các yêu cầu tốt nhất. Điều này được hiểu là các quy phạm nhân quyền đưa ra chỉ đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu mà bất kỳ con người nào cũng được hưởng chứ không đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo cho con người một cuộc sống tốt nhất về mọi mặt. Các quy phạm về nhân quyền hình thành nên một nghành luật quan trọng của luật quốc tế ràng buộc các quốc gia và bảo vệ tất cả mọi người. Một số quy phạm nhân quyền là các quy phạm jus cogen như các quy phạm chống tra tấn, diệt chủng, buôn bán nô lệ, cướp biển.1 Một số khác thì được quy định trong các công ước như Điều 4 Công ước về quyền chính trị dân sự (ICCPR) quy định quyền được sống, tự do tư tưởng, ý chí và tôn giáo, quyền được công nhận trước pháp luật,… như những quyền không thể bị vi phạm, tước bỏ. Các quy phạm về nhân quyền không hoàn toàn tuyệt đối về mức độ áp dụng. Bên cạnh các quyền được áp dụng một cách tuyệt đối tại tất cả các quốc gia còn có các quyền mà mức độ áp dụng khác nhau tùy điều kiện của từng quốc gia. Ví dụ Điều 2(3) Công ước về Quyền kinh tế, xã hội văn hóa cho phép các quốc gia đang phát triển quyết định phạm vi bảo đảm các quyền kinh tế quy định trong Công ước. Các quy phạm về nhân quyền được bảo đảm thực thi chủ yếu dựa vào ý chí của quốc gia do thiếu cơ chế thực thi hiệu quả cũng như do tính tương đối trong áp dụng các quy phạm. Hiện nay học thuyết ngoại lệ (exceptionalism) được nhiều nước viện dẫn để biện minh cho những hành động của mình. Ví dụ như việc Taliban tử hình một phụ nữ vì tội ngoại tình bằng cách ném đá giữa một sân vận động tháng 5/2000 hay việc một số bang của Mỹ vẫn duy trì hình thức tử hình bằng ghế điện. Những hành động này được xem là sự vi phạm nhân quyền, cụ thể Điều 7 ICCPR quy định rằng không người nào bị tra tấn hay chịu sự trừng phạt, đối xử tàn nhẫn, dã man. 1 Yearbook of ILC, 1966, Vol. II, p. 248 1 II. Vấn đề giải thích luật quốc tế về nhân quyền Các điều ước quốc tế về nhân quyền được giải thích theo các nguyên tắc được quy định trong điều 31, 32, 33 Công ước Viên 1969 như các điều ước thông thường khác. Tuy nhiên, vì những đặc điểm riêng của các điều ước này, nên việc giải thích các điều ước quốc tế về nhân quyền cũng có những đặc điểm riêng. 1. Các điều ước về nhân quyền được giải thích theo quy tắc chung về giải thích điều ước Điều 31 – Công ước Viên 1969 (1) Điều ước phải được giải thích với thiện chí phù hợp với nghĩa thông thường theo ngữ cảnh của những thuật ngữ được sử dụng trong điều ước, đồng thời theo tinh thần của đối tượng và mục đích của điều ước. (2) Ngữ cảnh để giải thích một điều ước, ngoài chính văn bản, trong đó có cả Lời nói đầu và các Phụ lục, còn bao gồm; [a] Thỏa thuận có liên quan đến điều ước đạt được giữa tất cả các thành viên trong dịp ký kết điều ước; [b] Một văn kiện do một hoặc nhiều thành viên đưa ra khi ký kết điều ước và được các thành viên khác chấp nhận là một văn kiện có liên quan đến điều ước. (3) Cùng với ngữ cảnh, giải thích điều ước phải tính đến: [a] Thỏa thuận sau này giữa các thành viên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy điịnh của điều ước; [b] Thực tiễn sau này trong việc thực hiện điều ước thể hiện thỏa thuận giữa các thành viên về việc giải thích điều ước; [c] Quy tắc liên quan của luật pháp quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên; (4) Một thuật ngữ sẽ được hiểu theo một nghĩa đặc biệt nếu xác định được rằng các thành viên có ý định như vậy. 2. Đặc điểm riêng về giải thích luật nhân quyền Một đặc điểm phân biệt điều ước quốc tế về nhân quyền với các điều ước quốc tế thông thường khác đó là nghĩa vụ của các quốc gia là thành viên của điều ước. Điều ước quốc tế về nhân quyền 2 là thỏa thuận giữa các quốc gia chấp nhận những quyền cụ thể đối với các cá nhân mà bản thân họ không phải là thành viên của điều ước quốc tế. Trong ý kiến tư vấn của mình năm 1982, Tòa Liên Mĩ đã giải thích và làm rõ điều này như sau: “Modern human rights treaties in general, and the American Convention in particular, are not multilateral treaties of the traditional type concluded to accomplish the reciprocal exchange of rights for the mutual benefit of the contracting States. Their object and purpose is the protection of the basic rights of individual human beings irrespective of their nationality, both against the State of their nationality and all other contracting states. In concluding these human rights treaties, the States can be deemed to submit themselves to a legal order within which they, for the common good, assume various obligations, not in relation to other states, but towards all individuals within their jurisdiction [...].” Và Ủy ban nhân quyền Châu Âu đã áp dụng điều này trong vụ việc giữa Australia và Italy: [T]he obligations undertaken by the High Contracting Parties in the European Convention are essentially of an objective character, being designed rather to protect the fundamental rights of individual human beings from infringements by any of the High Contracting Parties than to create subjective and reciprocal rights for the High Contracting Parties themselves. Có thể nói sự tồn tại của các điều ước quốc tế về nhân quyền là để bảo vệ các quyền của các cá nhân. Vì vậy, mục đích cũng như đối tượng của các điều ước này đóng vai trò quan trọng trong việc g ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền Tiểu luận Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền I. Đặc điểm của các quy phạm về nhân quyền Các quy phạm về nhân quyền chủ yếu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và chính phủ. Cụ thể các quy phạm này quy định nghĩa vụ quốc tế của các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm các nhân quyền của mọi cá nhân trên lãnh thổ hoặc trong phạm vi thẩm quyền của các quốc gia đó. Nhân quyền bao gồm các quy phạm hình thành một tiêu chuẩn tối thiểu hơn là đưa ra các yêu cầu tốt nhất. Điều này được hiểu là các quy phạm nhân quyền đưa ra chỉ đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu mà bất kỳ con người nào cũng được hưởng chứ không đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo cho con người một cuộc sống tốt nhất về mọi mặt. Các quy phạm về nhân quyền hình thành nên một nghành luật quan trọng của luật quốc tế ràng buộc các quốc gia và bảo vệ tất cả mọi người. Một số quy phạm nhân quyền là các quy phạm jus cogen như các quy phạm chống tra tấn, diệt chủng, buôn bán nô lệ, cướp biển.1 Một số khác thì được quy định trong các công ước như Điều 4 Công ước về quyền chính trị dân sự (ICCPR) quy định quyền được sống, tự do tư tưởng, ý chí và tôn giáo, quyền được công nhận trước pháp luật,… như những quyền không thể bị vi phạm, tước bỏ. Các quy phạm về nhân quyền không hoàn toàn tuyệt đối về mức độ áp dụng. Bên cạnh các quyền được áp dụng một cách tuyệt đối tại tất cả các quốc gia còn có các quyền mà mức độ áp dụng khác nhau tùy điều kiện của từng quốc gia. Ví dụ Điều 2(3) Công ước về Quyền kinh tế, xã hội văn hóa cho phép các quốc gia đang phát triển quyết định phạm vi bảo đảm các quyền kinh tế quy định trong Công ước. Các quy phạm về nhân quyền được bảo đảm thực thi chủ yếu dựa vào ý chí của quốc gia do thiếu cơ chế thực thi hiệu quả cũng như do tính tương đối trong áp dụng các quy phạm. Hiện nay học thuyết ngoại lệ (exceptionalism) được nhiều nước viện dẫn để biện minh cho những hành động của mình. Ví dụ như việc Taliban tử hình một phụ nữ vì tội ngoại tình bằng cách ném đá giữa một sân vận động tháng 5/2000 hay việc một số bang của Mỹ vẫn duy trì hình thức tử hình bằng ghế điện. Những hành động này được xem là sự vi phạm nhân quyền, cụ thể Điều 7 ICCPR quy định rằng không người nào bị tra tấn hay chịu sự trừng phạt, đối xử tàn nhẫn, dã man. 1 Yearbook of ILC, 1966, Vol. II, p. 248 1 II. Vấn đề giải thích luật quốc tế về nhân quyền Các điều ước quốc tế về nhân quyền được giải thích theo các nguyên tắc được quy định trong điều 31, 32, 33 Công ước Viên 1969 như các điều ước thông thường khác. Tuy nhiên, vì những đặc điểm riêng của các điều ước này, nên việc giải thích các điều ước quốc tế về nhân quyền cũng có những đặc điểm riêng. 1. Các điều ước về nhân quyền được giải thích theo quy tắc chung về giải thích điều ước Điều 31 – Công ước Viên 1969 (1) Điều ước phải được giải thích với thiện chí phù hợp với nghĩa thông thường theo ngữ cảnh của những thuật ngữ được sử dụng trong điều ước, đồng thời theo tinh thần của đối tượng và mục đích của điều ước. (2) Ngữ cảnh để giải thích một điều ước, ngoài chính văn bản, trong đó có cả Lời nói đầu và các Phụ lục, còn bao gồm; [a] Thỏa thuận có liên quan đến điều ước đạt được giữa tất cả các thành viên trong dịp ký kết điều ước; [b] Một văn kiện do một hoặc nhiều thành viên đưa ra khi ký kết điều ước và được các thành viên khác chấp nhận là một văn kiện có liên quan đến điều ước. (3) Cùng với ngữ cảnh, giải thích điều ước phải tính đến: [a] Thỏa thuận sau này giữa các thành viên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các quy điịnh của điều ước; [b] Thực tiễn sau này trong việc thực hiện điều ước thể hiện thỏa thuận giữa các thành viên về việc giải thích điều ước; [c] Quy tắc liên quan của luật pháp quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên; (4) Một thuật ngữ sẽ được hiểu theo một nghĩa đặc biệt nếu xác định được rằng các thành viên có ý định như vậy. 2. Đặc điểm riêng về giải thích luật nhân quyền Một đặc điểm phân biệt điều ước quốc tế về nhân quyền với các điều ước quốc tế thông thường khác đó là nghĩa vụ của các quốc gia là thành viên của điều ước. Điều ước quốc tế về nhân quyền 2 là thỏa thuận giữa các quốc gia chấp nhận những quyền cụ thể đối với các cá nhân mà bản thân họ không phải là thành viên của điều ước quốc tế. Trong ý kiến tư vấn của mình năm 1982, Tòa Liên Mĩ đã giải thích và làm rõ điều này như sau: “Modern human rights treaties in general, and the American Convention in particular, are not multilateral treaties of the traditional type concluded to accomplish the reciprocal exchange of rights for the mutual benefit of the contracting States. Their object and purpose is the protection of the basic rights of individual human beings irrespective of their nationality, both against the State of their nationality and all other contracting states. In concluding these human rights treaties, the States can be deemed to submit themselves to a legal order within which they, for the common good, assume various obligations, not in relation to other states, but towards all individuals within their jurisdiction [...].” Và Ủy ban nhân quyền Châu Âu đã áp dụng điều này trong vụ việc giữa Australia và Italy: [T]he obligations undertaken by the High Contracting Parties in the European Convention are essentially of an objective character, being designed rather to protect the fundamental rights of individual human beings from infringements by any of the High Contracting Parties than to create subjective and reciprocal rights for the High Contracting Parties themselves. Có thể nói sự tồn tại của các điều ước quốc tế về nhân quyền là để bảo vệ các quyền của các cá nhân. Vì vậy, mục đích cũng như đối tượng của các điều ước này đóng vai trò quan trọng trong việc g ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
công ước về nhân quyền tiểu luận pháp luật đại cương luật kinh doanh luật Việt Nam luật dân sự luật kinh doanhTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 1020 4 0 -
28 trang 548 0 0
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 384 0 0 -
Tiểu luận: Mua sắm tài sản công tại các cơ quan, đơn vị thuộc khu vực hành chính nhà nước
24 trang 320 0 0 -
Tổng hợp các vấn đề về Luật Dân sự
113 trang 299 0 0 -
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 297 0 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương - Chương 4: Một số nội dung cơ bản của Luật hành chính
11 trang 284 0 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 263 0 0 -
Tiểu luận: Tư duy phản biện và tư duy sáng tạo
46 trang 257 0 0 -
Tiểu luận: ĐÀM PHÁN VỀ CÔNG VIỆC GIỮA NHÀ TUYỂN DỤNG
9 trang 251 0 0