Tìm cách bảo vệ thương hiệu (2)
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 190.35 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tiếp theo kỳ trước, tác giả cụ thể hóa những hành vi xâm phạm tới cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới thương hiệu doanh nghiệp cùng những khuyến nghị phòng tránh. Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT 2005, có hai hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Thứ nhất, sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm cách bảo vệ thương hiệu (2)Tìm cách bảo vệ thương hiệu (2)Tiếp theo kỳ trước, tác giả cụ thể hóa những hành vi xâm phạm tới cạnhtranh không lành mạnh liên quan tới thương hiệu doanh nghiệp cùng nhữngkhuyến nghị phòng tránh.Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT 2005, có hai hành vi sau đâybị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:Thứ nhất, sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ.Thứ hai, đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùnghoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ củangười khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mụcđích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếngcủa nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.Chỉ dẫn thương mại ở đây là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thươngmại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinhdoanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá,nhãn hàng hoá.Dưới góc độ kinh tế học, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn với doanh nghiệpkhác luôn mang bản chất bóc lột bởi vì khi sử dụng các thông tin làm kháchhàng nhầm lẫn, doanh nghiệp vi phạm đã cố ý dựa vào danh tiếng của sảnphẩm khác hoặc doanh nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm của mình.Bản chất bóc lột thể hiện ở việc doanh nghiệp đã hưởng thành quả đầu tưcủa người khác một cách bất chính. Dưới góc độ pháp lý, hành vi vi phạm đãxâm hại quyền được bảo hộcủa các thành quả đầu tư hợp pháp của doanhnghiệp.Dưới góc độ quyền lợi của người tiêu dùng, hành vi vi phạm với nhữngthông tin gây nhầm lẫn đã tác động trực tiếp đến ý thức của khách hàng, làmcho họ không thể lựa chọn đúng sản phẩm mà họ muốn, xâm phạm quyền tựdo lựa chọn của người tiêu dùng. Hành vi này thực sự nguy hại cho xã hộikhi sản phẩm bị giả mạo các chỉ dẫn thương mại là sản phẩm kém chấtlượng.Luật Cạnh tranh năm 2005 cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn thươngmại làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá dịch vụ nhằm mụcđích cạnh tranh. Để tạo ra nhận thức sai lệch của khách hàng, chỉ dẫn thươngmại được sử dụng có thể là giả mạo chỉ dẫn thương mại của thương nhânkhác hoặc là những chỉ dẫn thương mại có khả năng gây nhầm lẫn với hànghoá, dịch vụ với thương nhân khác.Như vậy, việc sử dụng những chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn không chỉxâm phạm lợi ích của người tiêu dùng mà còn có thể xâm hại đến lợi ích củađối thủ cạnh tranh. Biểu hiện tập trung của những hành vi chỉ dẫn gây nhầmlẫn là việc sản xuất và cho lưu hành hàng hoá và sản phẩm mà các dữ kiệnvà thông số về chúng là không trung thực. Hành vi này từng được coi làhành vi làm hàng giả và có thể bị được xử lý bằng pháp luật hình sự.Tuy nhiên, theo cách hiểu chung của các quốc gia có pháp luật về cạnh tranhkhông lành mạnh thì hàng giả, hàng nhái không thuộc phạm vi điềuchỉnh của pháp luật hình sự. Bởi lẽ, đối tượng bị xâm phạm là lợi ích của cáchãng sản xuất chính hiệu- các đối thủ cạnh tranh và vì vậy những hành vinày không nhất thiết phải gây nguy hiểm cho xã hội.Cần lưu ý rằng, những chỉ dẫn thương mại mà có thể bị xâm hại hay tạo sựnhầm lẫn phải là những chỉ dẫn được bảo hộ hợp pháp. Pháp luật của cácnước đều chỉ cấm những hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫnkhi nguồn gốc của sản phẩm chính hiệu là có thật, đã được bảo hộ và hành viđó phải nhằm mục đích cạnh tranh, nhằm tìm cách thay thế hay gây nhầmlẫn với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói trên có thể bị xử lý bằng biệnpháp dân sự như đã nêu trên của Luật SHTT hoặc các biện pháp hành chínhtheo quy định của pháp luật cạnh tranh bao gồm: phạt cảnh cáo, phạt tiền vàcác hình thức phạt bổ sung, yêu cầu khắc phục hậu quả với mức phạt tiền lêntới 20 triệu đồng.Từ phân tích các khía cạnh pháp lý về bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệpnhư trên, việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm để bảo vệ thương hiệu củamình là xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng kinhdoanh, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, bí mật kinh doanh, quyềnchống cạnh tranh không lành mạnh ...Điều cần lưu ý là tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh của doanh nghiệpcũng có thể được bảo hộ như một nhãn hiệu của doanh nghiệp nếu chúngđược đăng ký dưới hình thức nhãn hiệu hàng hóa/ nhãn hiệu dịch vụ củadoanh nghiệp và điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc xácđịnh hành vi xâm phạm quyền SHTT của doanh nghiệp.Theo số liệu thống kê của Cục Sở SHTT, năm 2007 có khoảng 27.000 đơnxin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, trong đó số đơn của doanhnghiệp Việt Nam tăng hơn nhiều so với những năm trước và chiếm khoảng72% tổng số đơn, và số lượng nhãn hiệu được cấp đăng ký bảo hộ của doanhnghiệp trong nước là khoảng 67%.đề tiếp theo doanh nghiệp Việt Nam cầnquan tâm là việc theo dõi và phát hiện những hành vi vi phạm thương hiệucủa mình và yêu cầu các cơ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm cách bảo vệ thương hiệu (2)Tìm cách bảo vệ thương hiệu (2)Tiếp theo kỳ trước, tác giả cụ thể hóa những hành vi xâm phạm tới cạnhtranh không lành mạnh liên quan tới thương hiệu doanh nghiệp cùng nhữngkhuyến nghị phòng tránh.Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT 2005, có hai hành vi sau đâybị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:Thứ nhất, sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ.Thứ hai, đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùnghoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ củangười khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mụcđích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếngcủa nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.Chỉ dẫn thương mại ở đây là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thươngmại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinhdoanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá,nhãn hàng hoá.Dưới góc độ kinh tế học, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn với doanh nghiệpkhác luôn mang bản chất bóc lột bởi vì khi sử dụng các thông tin làm kháchhàng nhầm lẫn, doanh nghiệp vi phạm đã cố ý dựa vào danh tiếng của sảnphẩm khác hoặc doanh nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm của mình.Bản chất bóc lột thể hiện ở việc doanh nghiệp đã hưởng thành quả đầu tưcủa người khác một cách bất chính. Dưới góc độ pháp lý, hành vi vi phạm đãxâm hại quyền được bảo hộcủa các thành quả đầu tư hợp pháp của doanhnghiệp.Dưới góc độ quyền lợi của người tiêu dùng, hành vi vi phạm với nhữngthông tin gây nhầm lẫn đã tác động trực tiếp đến ý thức của khách hàng, làmcho họ không thể lựa chọn đúng sản phẩm mà họ muốn, xâm phạm quyền tựdo lựa chọn của người tiêu dùng. Hành vi này thực sự nguy hại cho xã hộikhi sản phẩm bị giả mạo các chỉ dẫn thương mại là sản phẩm kém chấtlượng.Luật Cạnh tranh năm 2005 cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn thươngmại làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá dịch vụ nhằm mụcđích cạnh tranh. Để tạo ra nhận thức sai lệch của khách hàng, chỉ dẫn thươngmại được sử dụng có thể là giả mạo chỉ dẫn thương mại của thương nhânkhác hoặc là những chỉ dẫn thương mại có khả năng gây nhầm lẫn với hànghoá, dịch vụ với thương nhân khác.Như vậy, việc sử dụng những chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn không chỉxâm phạm lợi ích của người tiêu dùng mà còn có thể xâm hại đến lợi ích củađối thủ cạnh tranh. Biểu hiện tập trung của những hành vi chỉ dẫn gây nhầmlẫn là việc sản xuất và cho lưu hành hàng hoá và sản phẩm mà các dữ kiệnvà thông số về chúng là không trung thực. Hành vi này từng được coi làhành vi làm hàng giả và có thể bị được xử lý bằng pháp luật hình sự.Tuy nhiên, theo cách hiểu chung của các quốc gia có pháp luật về cạnh tranhkhông lành mạnh thì hàng giả, hàng nhái không thuộc phạm vi điềuchỉnh của pháp luật hình sự. Bởi lẽ, đối tượng bị xâm phạm là lợi ích của cáchãng sản xuất chính hiệu- các đối thủ cạnh tranh và vì vậy những hành vinày không nhất thiết phải gây nguy hiểm cho xã hội.Cần lưu ý rằng, những chỉ dẫn thương mại mà có thể bị xâm hại hay tạo sựnhầm lẫn phải là những chỉ dẫn được bảo hộ hợp pháp. Pháp luật của cácnước đều chỉ cấm những hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫnkhi nguồn gốc của sản phẩm chính hiệu là có thật, đã được bảo hộ và hành viđó phải nhằm mục đích cạnh tranh, nhằm tìm cách thay thế hay gây nhầmlẫn với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói trên có thể bị xử lý bằng biệnpháp dân sự như đã nêu trên của Luật SHTT hoặc các biện pháp hành chínhtheo quy định của pháp luật cạnh tranh bao gồm: phạt cảnh cáo, phạt tiền vàcác hình thức phạt bổ sung, yêu cầu khắc phục hậu quả với mức phạt tiền lêntới 20 triệu đồng.Từ phân tích các khía cạnh pháp lý về bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệpnhư trên, việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm để bảo vệ thương hiệu củamình là xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng kinhdoanh, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, bí mật kinh doanh, quyềnchống cạnh tranh không lành mạnh ...Điều cần lưu ý là tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh của doanh nghiệpcũng có thể được bảo hộ như một nhãn hiệu của doanh nghiệp nếu chúngđược đăng ký dưới hình thức nhãn hiệu hàng hóa/ nhãn hiệu dịch vụ củadoanh nghiệp và điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc xácđịnh hành vi xâm phạm quyền SHTT của doanh nghiệp.Theo số liệu thống kê của Cục Sở SHTT, năm 2007 có khoảng 27.000 đơnxin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, trong đó số đơn của doanhnghiệp Việt Nam tăng hơn nhiều so với những năm trước và chiếm khoảng72% tổng số đơn, và số lượng nhãn hiệu được cấp đăng ký bảo hộ của doanhnghiệp trong nước là khoảng 67%.đề tiếp theo doanh nghiệp Việt Nam cầnquan tâm là việc theo dõi và phát hiện những hành vi vi phạm thương hiệucủa mình và yêu cầu các cơ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
bảo vệ thương hiệu phát triển thương hiệu bài học thương hiệu kiến thức thương hiệu chiến lược thương hiệu quản trị thương hiệu phát triển thương hiệuGợi ý tài liệu liên quan:
-
28 trang 249 2 0
-
Giá trị vô hình của thương hiệu.
5 trang 229 0 0 -
Chương 8: Truyền thông marketing
43 trang 223 0 0 -
Sau sự sụp đổ: Điều gì thật sự xảy ra đối với các thương hiệu
4 trang 218 0 0 -
4 trang 217 0 0
-
Xây dựng nhãn hiệu mạnh bằng lý thuyết 9C
5 trang 152 0 0 -
Xây dựng văn hóa tiêu dùng Việt Nam - Phát triển thương hiệu hàng Việt
5 trang 133 0 0 -
Lợi thế của thị trường truyền thông kỹ thuật số
7 trang 128 0 0 -
Green Event (Event Xanh) - cách tạo thiện cảm dành cho thương hiệu
4 trang 122 0 0 -
Thiết kế hệ thống nhận diện thương hiệu chuyên nghiệp
6 trang 115 0 0