Tìm hiểu nhạc cụ tiêu biểu của người Raglai cực Nam Trung bộ: Phần 2
Số trang: 111
Loại file: pdf
Dung lượng: 41.90 MB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn sách "Chhar nhạc cụ tiêu biểu của người Raglai cực Nam Trung bộ" tiếp tục trình bày về nhạc cụ dân gian Raglai; Nhạc cụ Mã-la với biên chế từng bộ, ở từng làng và bài bản của nó đã ghi nhận được ở hai nhánh Raglai Bắc - Raglai Nam; Vị trí - vai trò của nhạc cụ Chhar trong đời sống cộng đồng Raglai. Mời các bạn cùng đón đọc nội dung cuốn sách tại đây!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu nhạc cụ tiêu biểu của người Raglai cực Nam Trung bộ: Phần 2 - Bài 4: Seh yavva (than thở) Bài 5: Kai tong gloong loi (cai tổng thiên thẹo) Đến đây, đã qua 10 làng, dừng lại ghi chép (ghiâm, chụp hình, phỏng vấn trong đó có 70% số làng đãđược ghi hình), ngày 22/6/2006, chúng tôi đã dừng lạiở làng thứ mười, Hà-Dài, điếm cuối cùng của nhánhRaglai Nam, cách đường QL số 27 mười sáu cây số vềphía Nam. Nhìn lại nhạc cụ Chhar ở 10 làng thuộc nhánhRaglai Nam, theo người viết tài liệu này, có ihể Ê Ọ là TĨNhánh Mã-la sô chẵn, số chẵn vì hầu hết các bộChhar ở các làng thuộc nhánh Raglai Nam đều chỉ có 2chiếc hoặc 4 chiếc. Như đã giới thiệu ở phần đầu, thấy sao nói vậy,ngưoi viêt không dám suy luận vì chính những cụ già /104/Raglai cũng không giải thích được vì sao Chhar ởnhánh Raglai Nam không phải là số lẻ và ở nhánhRaglai Bắc thì ngược lại ? Câu hỏi này xin phép được để lại cho các nhà âmnhạc học, dân tộc học, các nhạc sĩ tài danh giải đáp hộtrong tưong lai gần. Dường như để bù cho số lượng chiếc ít ỏi trongmỗi bộ Chhar ở nhánh Raglai Nam (2 và 4), vị Tổ phụtạo ra Chhar Raglai (9) đã cho thêm nhánh Raglai Namcác bộ chiêng núm ba chiếc để hoà tấu vói kèn bầuSarakel và trống lớn làm bằng thân cây. Đối vói những bộ Chhar 2 chiếc, chỉ thấy ở nhánhRaglai Nam, chủ yếu là dùng để đánh đối đáp thi tài,chức năng phản ánh rất hạn chế, vì chỉ có 2 nốt nhạc,chỉ phù họp với những bài Chhar đơn giản, có tiết tấunhanh. Tuy vậy, bộ Chhar 2 chiếc rất kén người chơi,không phải bất cứ ai đánh được Chhar là đều có thể sửdụng nó mà phải là các nghệ nhân thực sự tài ba, nhấtlà phải già nhịp. Đứng trước hai nghệ nhân tài ba(như 2 ông Taing Phân-Hoa và Yalưk Sáu ở làngYarok, xã Ma Nới, Ninh Sơn chẳng hạn) đang đánh đôiđáp Mã-la (Chhar) đôi, ta thấy rõ: lúc thì họ cùng nhaunhịp nhàng tung hứng, khi thì lý lẽ, trô tài hùng biệnđể đối chọi nhau. Ai đuối lý (non nhịp, rơi nhịp) phảichịu thua, đối thủ khác sẽ vào thử sức. Vì vậy ngônngữ chính của Chhar đối đáp không nằm chính ờ giaiđiệu mà ở tiết tấu xung khắc, đột biên, tạo nên sự hào /105/hứng đặc biệt cho người xem và cả người chơi. Đối với những bộ Chhar 4 chiếc, tuy bài bản củanó không ít nhưng chỉ có thể có giai điệu mỏng màkhông thể có bè tự nhiên như những bộ Chhar nhiêuchiếc ở nhánh Raglai Bắc được. Như là một diễm phúc được đền bù, bộ chiêngnúm 3 chiếc ở nhánh Raglai Nam được bà con đặt vàovị trí trân trọng: chỉ dùng trong các lễ cúng, không baogiờ đánh tùy thích hoặc tách riêng ra một chiếc đế tâucùng các loại nhạc cụ khác. Ở những làng có bộ chiêng núm 3 chiếc và có cảbộ Chhar 4 chiếc thì vai trò ưu tiên được dùng chonhạc lễ là bộ chiêng ba và Sarakel, trống lớn. Ở những làng chỉ có những bộ Chhar 4 chiếc,dùng cho nhạc lễ chính là nó. 2. NHẠC CỤ CHHAR ờ NHÁNH RAGLAI BẮC 2 .1 . Palav Ạparl + Apar2. Đây là lần thứ ba, nhóm công tác của chúng tôicó hai nhạc sĩ: Amư Nhân, Hoài Sơn và tôi cùng điđến huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hoà. Vượt mộtđoạn đường trên một trăm cây số, qua nhiều đèo, dốchiêm trở băng xe máy, chúng tôi mới đến được xãThành Sơn. Chúng tôi quyêt định đi đến Khánh Sơn vì hai lẽ: Một là vùng rừng núi năm xưa, nơi sinh sống /106/và đánh giặc của bà con Raglai không phân biệt đâulà Khánh Hoà, đâu là Ninh Thuận, chỉ biết cùngnhau sống chết trong một chiến khu mang tên BácÁi. Ngày nay họ hàng thân thuộc hai bên Bác Ái vàKhánh Sơn vẫn qua lại trong các dịp đám cưới, Bỏmả, Ăn Đầu L úa...như người trong nhà. Như vậy,nếu chúng tôi dừng lại, chỉ lấy tài liệu đến tỉnhNinh Thuận thì chưa thể tiêu biểu cho nhánh RaglaiBắc được. Hai là qua tiếp xúc với các nghệ nhân tài ba, caoniên ở huyện Bác Ái, trao đổi với nhà nghiên cứuNguyễn Thế Sang khi còn sống, chúng tôi biết chắc làkho báu văn hoá-văn nghệ dân gian Raglai ở phía Bắcchiến khu Bác Ái năm xưa, trong đó có cả các vị nghệnhân dân gian lỗi lạc ở nơi này vẫn chưa được biết đếnlà bao nhiêu! Quả đúng như vậy! Thật là hạnh phúc, may mắncho chúng tôi khi mới bước chân lần đầu tiên đếnKhánh Sơn đã gặp được hai nghệ nhân dân gian lớn:Katơr Yuranh và Pupor Thị Riah. ông Kator Yuranh làmột nghệ nhân dân gian lỗi lạc, thông thạo, điêu luyệnđến hàng chục loại nhạc cụ Raglai, trong đó có cả nhạccụ Chhar. Bà nữ nghệ nhân Pupor Thị Riah là ngườithông thuộc rất nhiều, rất nhiều... truyện hát kê(Khánh Hoà gọi là Akhat Yukar). Đen hôm nay thìhình ảnh của óng Yuranh ờ Sơn Bình vẫn còn trong /107/băng hình của chúng tôi mà ông thì đã khuất rồi! Cònbà Riah một nữ nghệ nhân hiểm có ở La Măng chăngbiết còn hay mất? Rời Tô Hạp, chúng tôi đi tiếp về phía Tây, đến xãThành Sơn. Hai làng Aparl và Apar2 là hai làng cực Tây,cách nhau con sông Ha-Mreo, thuộc xã Thành Sơn,huyện K ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu nhạc cụ tiêu biểu của người Raglai cực Nam Trung bộ: Phần 2 - Bài 4: Seh yavva (than thở) Bài 5: Kai tong gloong loi (cai tổng thiên thẹo) Đến đây, đã qua 10 làng, dừng lại ghi chép (ghiâm, chụp hình, phỏng vấn trong đó có 70% số làng đãđược ghi hình), ngày 22/6/2006, chúng tôi đã dừng lạiở làng thứ mười, Hà-Dài, điếm cuối cùng của nhánhRaglai Nam, cách đường QL số 27 mười sáu cây số vềphía Nam. Nhìn lại nhạc cụ Chhar ở 10 làng thuộc nhánhRaglai Nam, theo người viết tài liệu này, có ihể Ê Ọ là TĨNhánh Mã-la sô chẵn, số chẵn vì hầu hết các bộChhar ở các làng thuộc nhánh Raglai Nam đều chỉ có 2chiếc hoặc 4 chiếc. Như đã giới thiệu ở phần đầu, thấy sao nói vậy,ngưoi viêt không dám suy luận vì chính những cụ già /104/Raglai cũng không giải thích được vì sao Chhar ởnhánh Raglai Nam không phải là số lẻ và ở nhánhRaglai Bắc thì ngược lại ? Câu hỏi này xin phép được để lại cho các nhà âmnhạc học, dân tộc học, các nhạc sĩ tài danh giải đáp hộtrong tưong lai gần. Dường như để bù cho số lượng chiếc ít ỏi trongmỗi bộ Chhar ở nhánh Raglai Nam (2 và 4), vị Tổ phụtạo ra Chhar Raglai (9) đã cho thêm nhánh Raglai Namcác bộ chiêng núm ba chiếc để hoà tấu vói kèn bầuSarakel và trống lớn làm bằng thân cây. Đối vói những bộ Chhar 2 chiếc, chỉ thấy ở nhánhRaglai Nam, chủ yếu là dùng để đánh đối đáp thi tài,chức năng phản ánh rất hạn chế, vì chỉ có 2 nốt nhạc,chỉ phù họp với những bài Chhar đơn giản, có tiết tấunhanh. Tuy vậy, bộ Chhar 2 chiếc rất kén người chơi,không phải bất cứ ai đánh được Chhar là đều có thể sửdụng nó mà phải là các nghệ nhân thực sự tài ba, nhấtlà phải già nhịp. Đứng trước hai nghệ nhân tài ba(như 2 ông Taing Phân-Hoa và Yalưk Sáu ở làngYarok, xã Ma Nới, Ninh Sơn chẳng hạn) đang đánh đôiđáp Mã-la (Chhar) đôi, ta thấy rõ: lúc thì họ cùng nhaunhịp nhàng tung hứng, khi thì lý lẽ, trô tài hùng biệnđể đối chọi nhau. Ai đuối lý (non nhịp, rơi nhịp) phảichịu thua, đối thủ khác sẽ vào thử sức. Vì vậy ngônngữ chính của Chhar đối đáp không nằm chính ờ giaiđiệu mà ở tiết tấu xung khắc, đột biên, tạo nên sự hào /105/hứng đặc biệt cho người xem và cả người chơi. Đối với những bộ Chhar 4 chiếc, tuy bài bản củanó không ít nhưng chỉ có thể có giai điệu mỏng màkhông thể có bè tự nhiên như những bộ Chhar nhiêuchiếc ở nhánh Raglai Bắc được. Như là một diễm phúc được đền bù, bộ chiêngnúm 3 chiếc ở nhánh Raglai Nam được bà con đặt vàovị trí trân trọng: chỉ dùng trong các lễ cúng, không baogiờ đánh tùy thích hoặc tách riêng ra một chiếc đế tâucùng các loại nhạc cụ khác. Ở những làng có bộ chiêng núm 3 chiếc và có cảbộ Chhar 4 chiếc thì vai trò ưu tiên được dùng chonhạc lễ là bộ chiêng ba và Sarakel, trống lớn. Ở những làng chỉ có những bộ Chhar 4 chiếc,dùng cho nhạc lễ chính là nó. 2. NHẠC CỤ CHHAR ờ NHÁNH RAGLAI BẮC 2 .1 . Palav Ạparl + Apar2. Đây là lần thứ ba, nhóm công tác của chúng tôicó hai nhạc sĩ: Amư Nhân, Hoài Sơn và tôi cùng điđến huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hoà. Vượt mộtđoạn đường trên một trăm cây số, qua nhiều đèo, dốchiêm trở băng xe máy, chúng tôi mới đến được xãThành Sơn. Chúng tôi quyêt định đi đến Khánh Sơn vì hai lẽ: Một là vùng rừng núi năm xưa, nơi sinh sống /106/và đánh giặc của bà con Raglai không phân biệt đâulà Khánh Hoà, đâu là Ninh Thuận, chỉ biết cùngnhau sống chết trong một chiến khu mang tên BácÁi. Ngày nay họ hàng thân thuộc hai bên Bác Ái vàKhánh Sơn vẫn qua lại trong các dịp đám cưới, Bỏmả, Ăn Đầu L úa...như người trong nhà. Như vậy,nếu chúng tôi dừng lại, chỉ lấy tài liệu đến tỉnhNinh Thuận thì chưa thể tiêu biểu cho nhánh RaglaiBắc được. Hai là qua tiếp xúc với các nghệ nhân tài ba, caoniên ở huyện Bác Ái, trao đổi với nhà nghiên cứuNguyễn Thế Sang khi còn sống, chúng tôi biết chắc làkho báu văn hoá-văn nghệ dân gian Raglai ở phía Bắcchiến khu Bác Ái năm xưa, trong đó có cả các vị nghệnhân dân gian lỗi lạc ở nơi này vẫn chưa được biết đếnlà bao nhiêu! Quả đúng như vậy! Thật là hạnh phúc, may mắncho chúng tôi khi mới bước chân lần đầu tiên đếnKhánh Sơn đã gặp được hai nghệ nhân dân gian lớn:Katơr Yuranh và Pupor Thị Riah. ông Kator Yuranh làmột nghệ nhân dân gian lỗi lạc, thông thạo, điêu luyệnđến hàng chục loại nhạc cụ Raglai, trong đó có cả nhạccụ Chhar. Bà nữ nghệ nhân Pupor Thị Riah là ngườithông thuộc rất nhiều, rất nhiều... truyện hát kê(Khánh Hoà gọi là Akhat Yukar). Đen hôm nay thìhình ảnh của óng Yuranh ờ Sơn Bình vẫn còn trong /107/băng hình của chúng tôi mà ông thì đã khuất rồi! Cònbà Riah một nữ nghệ nhân hiểm có ở La Măng chăngbiết còn hay mất? Rời Tô Hạp, chúng tôi đi tiếp về phía Tây, đến xãThành Sơn. Hai làng Aparl và Apar2 là hai làng cực Tây,cách nhau con sông Ha-Mreo, thuộc xã Thành Sơn,huyện K ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nhạc cụ của người Raglai Nhạc cụ dân gian Raglai Nhạc cụ Mã-la Nhạc cụ Chhar trong cộng đồng Raglai Vai trò của nhạc cụ Chhar Nhạc cụ Ninh Thuận Âm nhạc Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ
422 trang 401 0 0 -
Giáo trình Lược sử Âm nhạc Việt Nam - Thuỵ Loan
128 trang 319 7 0 -
Phổ nhạc bài hát Cô bé mùa đông
2 trang 175 0 0 -
Giáo trình môn Lý thuyết âm nhạc cơ bản: Phần 2 - TS. Trịnh Hoài Thu (chủ biên)
25 trang 131 3 0 -
Tổng hợp một số Bài ca tuổi trẻ: Phần 1
89 trang 91 0 0 -
Nhạc cung đình Huế - loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc ở Việt Nam
2 trang 71 0 0 -
Tìm hiểu nguồn gốc hát Ví của xứ Nghệ xét trong mối quan hệ với 'Việt ca'
8 trang 68 0 0 -
Những nhạc phẩm Việt Nam và Quốc tế nổi tiếng dành cho Guitar cổ điển
78 trang 61 0 0 -
85 ca khúc đặc sắc nhất màu đông - Giai điệu mùa đông
155 trang 52 0 0 -
60 ca khúc phát triển dân ca người Việt Nam - Về quê
94 trang 49 1 0