![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Tìm hiểu sâu thêm về A giao (Kỳ 2)
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 198.08 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quy Kinh: +Vào kinh Thủ Thái dương Tam tiêu, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âm Can (Thang Dịch Bản Thảo). +Vào kinh Thủ Thiếu âm Tâm, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âm Can (Bản Thảo Hối Ngôn). + Vào kinh Can, Phế, Thận, Tâm (Bản Thảo Cầu Chân). +Vào 3 kinh Can, Phế, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển). Tham Khảo: +“A Tỉnh, nay ở 30 dặm về phía Đông-Bắc huyện Dương Cốc, phủ Đoài Châu tỉnh Sơn Đông (huyện Đông A xưa) nơi đó là cấm địa của quan ở. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu sâu thêm về A giao (Kỳ 2) Tìm hiểu sâu thêm về A giao (Kỳ 2) Quy Kinh: +Vào kinh Thủ Thái dương Tam tiêu, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âmCan (Thang Dịch Bản Thảo). +Vào kinh Thủ Thiếu âm Tâm, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âm Can(Bản Thảo Hối Ngôn). + Vào kinh Can, Phế, Thận, Tâm (Bản Thảo Cầu Chân). +Vào 3 kinh Can, Phế, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển). Tham Khảo: +“A Tỉnh, nay ở 30 dặm về phía Đông-Bắc huyện Dương Cốc, phủ ĐoàiChâu tỉnh Sơn Đông (huyện Đông A xưa) nơi đó là cấm địa của quan ở. Ly ĐạoNguyên trong ‘Thủy Kinh Chú ‘ ghi: “Huyện Đông A có cái giếng to như bánh xengựa, sâu hơn 20 mét, hàng năm lấy nước giếng đó nấu cao dâng cho triều đình.Nước trong giếng này bắt nguồn từ sông Tế chảy xuống, lấy nước này nấu cao.Khi quậy, nước (đang) trọc đục thì trong lại, vì vậy dùng vào việc thông quancách, làm cho tiêu đờm, cầm nôn mửa. Vì nước sông Tế trong mà nặng, tính củanó hướng xuống, do đó chữa được ứ đọng, bẩn đục và đờm nghịch đi lên vậy “(Bản Thảo Cương Mục). +“Nay tại tỉnh Sơn Đông cũng làm được như vậy. Loại da xử dụng có loạigìa loại non, loại cao thì có loại thanh loại trọc. Khi nấu phải bỏ vào 1 miêng sừnghươu (Lộc giác) thì sẽ thành được keo, nếu không làm như vậy thì không được .Vềcao có 3 loại: + Loại trong mà mỏng là loại các họa sĩ thường dùng . + Loại trong mà dầy gọi là Phúc Bồn Giao 2 loại này thường dùng làm thuốc. + Loại trọc đục mà đen thì không dùng làm thuốc nhưng có thể làm keodán dụng cụ” (Thực liệu bản thảo). +“...Ngày nay các nhà bào chế thuốc dùng Hoàng minh giao, đa số là datrâu, bò. A giao trong ‘Bản Kinh’ cũng là da trâu,bò. Dù là da lừa hoặc trâu bòđều có thể dùng được . Nhưng hiện nay cách chế da trâu bò không được tinh xảonên chỉ dùng vào việc dán dụng cụ... không thể dùng vào việc làm thuốc được .Trần Tàng Khí nói rằng:” Các loại ‘giao’ đều có thể chữaphong,cầm tiết, bổ hư vìvậy cao da lừa chuyên chữavề phong là vậy”. Đây là điều cho thấy rằng A giaohơn các loại cao khác vậy - Chác Nhai nhận định: “Nghe nói cách chế keo ngàyxưa là trước tiên lấy nước ở khe suối tên Lang ( Lang Khê) ngâm da sau đó lấynước giếng A Tỉnh nấu thành cao. Lang Khê phát nguồn từ suối Hồng Phạm, tínhnó thuộc Dương, còn nước giếng A Tỉnh thuộc Âm, ý là lấy Âm Dương phối hợpvới nhau. Dùng lửa cây dâu tằm luyện thành cao, sau 4 ngày 4 đêm thì thành Agiao. Lại nói rằng người dùng A giao kỵ nhất là rượu, nên cố gắng phòng tránh .Đây là điều người xưa chưa từng nói, vì vậy ghi lại để biết vậy - Vị A giao chủyếu bổ huyết dịch, vì vậy nó có khả năng thanh phế, ích âm, chữa được các chứngbệnh. Trần -Tự-Minh cho rằng:” Bổ hư thì dùng Ngưu bì giao, trừ phong thì dùngLư bì giao (keo da lừa)”. Thành-Vô-Kỷ lại cho rằng:”Phần âm bị bất túc thì bổbằng thuốc có vị đậm đặc, vị ngọt của A giao để bổ âm huyết”. Dương Sĩ Doanhcho rằng: “Hễ trị chứng ho suyễn, bất luận Phế bị hư hoặc thực, nếu dùng phép hạhoặc phép ôn đều phải dùng đến A giao để an và nhuận Phế. Tính của A giao bìnhhòa,là thuốc cần thiết cho kinh Phế. Trẻ nhỏ sau khi bị động kinh, cơ thể co rút,dùng A giao, tăng gấp đôi vị Nhân Sâm sắc uống là tốt nhất (Trung Quốc DượcHọc Đại Tự Điển). +“ Giếng A Tỉnh là con mắt của sông Tế Thủy. Sách Nội Kinh cho rằng TếThủy cũng như cái gan của trời đất cho nên phần nhiều có công dụng nhập vàotạng Can. Da con lừa mầu đen, mầu sắc hợp với hành Thủy ở phương Bắc, làgiống vật hiền lành mà đi khỏe, cho nên nhập vào Thận cũng nhiều. Khi Thậnthủy đầy đủ thì tự nhiên chế được hỏa, hỏa tắt thì không sinh ra phong, cho nênchứng Mộc vượng làm động phong, tâm hỏa thịnh, Phế kim suy, không gì làkhông thấy kiến hiệu. Lại nói: A giao thứ thật khó mà có được thì dùng HoàngMinh Ngưu Giao, nhưng da trâu thường chế không đúng phép, mình tự chế lấy thìtốt. Khi nấu phải cho vào 1 miếng gạc hươu, nếu không thì không thành cao. Caoda trâu gọi là Ngưu Bì Giao hoặc Thủy Giao, có tác dụng nhuận táo, lợi đại tiểutrường, là thuốc chủ yếu để chữa đau, hoạt huyết của ngoại khoa, trị tất cả cácchứng về huyết của nam và nữ. Mọi thứ cao đều bổ huyết, dưỡng hư, mà A giaolại là da lừa đen nấu thành với nước giếng A Tỉnh, tức là nước sông Tế Thủyngâm vào, mầu sắc chính biếc, tính thì chạy xuống gấp, trong mà lại nặng, hoàntoàn âm tính, rất khác với nước ở các sông khác, do đó càng có khả năng đểnhuận Phế, dưỡng Can và tư bổ Thận” (Dược Phẩm Vậng Yếu) + “ A giao là vị thuốc phải gia công chế biến . Dùng da lừa đen, lấy nướcgiếng Đông A ở tỉnh Sơn Đông nấu thành cao để chữa ho lao, là vị thuốc chủ yếuchỉ (cầm) huyết của các chứng về huyết. Dùng loại trong, sáng, dòn, không tanhhôi, không mềm nhũn là tốt. Khi dùng vị thuốc này phải làm cho chảy ra rồi hòavới thuốc khác mà uống, không nên sắc chung với các vị thuốc khác vì sắc nó khótan ra nước cốt, hiệu quả điều trị không cao” (Đông Dược Học Thiết Yếu) + “A giao gặp được lửa rất tốt” (Bản Thảo Kinh Tập Chú). +”A giao có Thự Dự (Hoài Sơn) làm sứ thì tốt ( Dược Tính Luận) +” Thứ keo nấu bằng da lừa loại tốt được gọi là ‘Cống Giao’ (dùng đểcống cho nhà vua) còn thứ nấu bằng da trâu, bò gọi là Minh Giao (Phương BàoChế Đông Dược Việt Nam). +A giao và Lộc giác giao là những vị thuốc đại bổ, rất có liên hệ với huyết.Cả 2 đều có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, chỉ huyết. Nhưng A giao vị ngọt, tínhbình thiên về bổ huyết, chỉ huyết. Kiêm tư Phế, an thai, cầm huyết hư ra nhiều.Còn Lộc giác giao vị ngọt, mặn, tính ấm, thiên về ôn bổ Can,Thận, cố tinh. Phầnhỏa suy nhiều phải dùng Lộc giác giao” (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng ChỉMê). + Thục địa và A giao có tác dụng tư âm, bổ huyết nhưng Thục địa thiên vềbổ Thận âm, trấn tinh tủy mà bổ huyết còn A giao thiên về nhuận Phế, dưỡng Can,bổ huyết mà tư âm, chỉ huyết. Hễ âm hư, bất túc ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu sâu thêm về A giao (Kỳ 2) Tìm hiểu sâu thêm về A giao (Kỳ 2) Quy Kinh: +Vào kinh Thủ Thái dương Tam tiêu, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âmCan (Thang Dịch Bản Thảo). +Vào kinh Thủ Thiếu âm Tâm, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết âm Can(Bản Thảo Hối Ngôn). + Vào kinh Can, Phế, Thận, Tâm (Bản Thảo Cầu Chân). +Vào 3 kinh Can, Phế, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển). Tham Khảo: +“A Tỉnh, nay ở 30 dặm về phía Đông-Bắc huyện Dương Cốc, phủ ĐoàiChâu tỉnh Sơn Đông (huyện Đông A xưa) nơi đó là cấm địa của quan ở. Ly ĐạoNguyên trong ‘Thủy Kinh Chú ‘ ghi: “Huyện Đông A có cái giếng to như bánh xengựa, sâu hơn 20 mét, hàng năm lấy nước giếng đó nấu cao dâng cho triều đình.Nước trong giếng này bắt nguồn từ sông Tế chảy xuống, lấy nước này nấu cao.Khi quậy, nước (đang) trọc đục thì trong lại, vì vậy dùng vào việc thông quancách, làm cho tiêu đờm, cầm nôn mửa. Vì nước sông Tế trong mà nặng, tính củanó hướng xuống, do đó chữa được ứ đọng, bẩn đục và đờm nghịch đi lên vậy “(Bản Thảo Cương Mục). +“Nay tại tỉnh Sơn Đông cũng làm được như vậy. Loại da xử dụng có loạigìa loại non, loại cao thì có loại thanh loại trọc. Khi nấu phải bỏ vào 1 miêng sừnghươu (Lộc giác) thì sẽ thành được keo, nếu không làm như vậy thì không được .Vềcao có 3 loại: + Loại trong mà mỏng là loại các họa sĩ thường dùng . + Loại trong mà dầy gọi là Phúc Bồn Giao 2 loại này thường dùng làm thuốc. + Loại trọc đục mà đen thì không dùng làm thuốc nhưng có thể làm keodán dụng cụ” (Thực liệu bản thảo). +“...Ngày nay các nhà bào chế thuốc dùng Hoàng minh giao, đa số là datrâu, bò. A giao trong ‘Bản Kinh’ cũng là da trâu,bò. Dù là da lừa hoặc trâu bòđều có thể dùng được . Nhưng hiện nay cách chế da trâu bò không được tinh xảonên chỉ dùng vào việc dán dụng cụ... không thể dùng vào việc làm thuốc được .Trần Tàng Khí nói rằng:” Các loại ‘giao’ đều có thể chữaphong,cầm tiết, bổ hư vìvậy cao da lừa chuyên chữavề phong là vậy”. Đây là điều cho thấy rằng A giaohơn các loại cao khác vậy - Chác Nhai nhận định: “Nghe nói cách chế keo ngàyxưa là trước tiên lấy nước ở khe suối tên Lang ( Lang Khê) ngâm da sau đó lấynước giếng A Tỉnh nấu thành cao. Lang Khê phát nguồn từ suối Hồng Phạm, tínhnó thuộc Dương, còn nước giếng A Tỉnh thuộc Âm, ý là lấy Âm Dương phối hợpvới nhau. Dùng lửa cây dâu tằm luyện thành cao, sau 4 ngày 4 đêm thì thành Agiao. Lại nói rằng người dùng A giao kỵ nhất là rượu, nên cố gắng phòng tránh .Đây là điều người xưa chưa từng nói, vì vậy ghi lại để biết vậy - Vị A giao chủyếu bổ huyết dịch, vì vậy nó có khả năng thanh phế, ích âm, chữa được các chứngbệnh. Trần -Tự-Minh cho rằng:” Bổ hư thì dùng Ngưu bì giao, trừ phong thì dùngLư bì giao (keo da lừa)”. Thành-Vô-Kỷ lại cho rằng:”Phần âm bị bất túc thì bổbằng thuốc có vị đậm đặc, vị ngọt của A giao để bổ âm huyết”. Dương Sĩ Doanhcho rằng: “Hễ trị chứng ho suyễn, bất luận Phế bị hư hoặc thực, nếu dùng phép hạhoặc phép ôn đều phải dùng đến A giao để an và nhuận Phế. Tính của A giao bìnhhòa,là thuốc cần thiết cho kinh Phế. Trẻ nhỏ sau khi bị động kinh, cơ thể co rút,dùng A giao, tăng gấp đôi vị Nhân Sâm sắc uống là tốt nhất (Trung Quốc DượcHọc Đại Tự Điển). +“ Giếng A Tỉnh là con mắt của sông Tế Thủy. Sách Nội Kinh cho rằng TếThủy cũng như cái gan của trời đất cho nên phần nhiều có công dụng nhập vàotạng Can. Da con lừa mầu đen, mầu sắc hợp với hành Thủy ở phương Bắc, làgiống vật hiền lành mà đi khỏe, cho nên nhập vào Thận cũng nhiều. Khi Thậnthủy đầy đủ thì tự nhiên chế được hỏa, hỏa tắt thì không sinh ra phong, cho nênchứng Mộc vượng làm động phong, tâm hỏa thịnh, Phế kim suy, không gì làkhông thấy kiến hiệu. Lại nói: A giao thứ thật khó mà có được thì dùng HoàngMinh Ngưu Giao, nhưng da trâu thường chế không đúng phép, mình tự chế lấy thìtốt. Khi nấu phải cho vào 1 miếng gạc hươu, nếu không thì không thành cao. Caoda trâu gọi là Ngưu Bì Giao hoặc Thủy Giao, có tác dụng nhuận táo, lợi đại tiểutrường, là thuốc chủ yếu để chữa đau, hoạt huyết của ngoại khoa, trị tất cả cácchứng về huyết của nam và nữ. Mọi thứ cao đều bổ huyết, dưỡng hư, mà A giaolại là da lừa đen nấu thành với nước giếng A Tỉnh, tức là nước sông Tế Thủyngâm vào, mầu sắc chính biếc, tính thì chạy xuống gấp, trong mà lại nặng, hoàntoàn âm tính, rất khác với nước ở các sông khác, do đó càng có khả năng đểnhuận Phế, dưỡng Can và tư bổ Thận” (Dược Phẩm Vậng Yếu) + “ A giao là vị thuốc phải gia công chế biến . Dùng da lừa đen, lấy nướcgiếng Đông A ở tỉnh Sơn Đông nấu thành cao để chữa ho lao, là vị thuốc chủ yếuchỉ (cầm) huyết của các chứng về huyết. Dùng loại trong, sáng, dòn, không tanhhôi, không mềm nhũn là tốt. Khi dùng vị thuốc này phải làm cho chảy ra rồi hòavới thuốc khác mà uống, không nên sắc chung với các vị thuốc khác vì sắc nó khótan ra nước cốt, hiệu quả điều trị không cao” (Đông Dược Học Thiết Yếu) + “A giao gặp được lửa rất tốt” (Bản Thảo Kinh Tập Chú). +”A giao có Thự Dự (Hoài Sơn) làm sứ thì tốt ( Dược Tính Luận) +” Thứ keo nấu bằng da lừa loại tốt được gọi là ‘Cống Giao’ (dùng đểcống cho nhà vua) còn thứ nấu bằng da trâu, bò gọi là Minh Giao (Phương BàoChế Đông Dược Việt Nam). +A giao và Lộc giác giao là những vị thuốc đại bổ, rất có liên hệ với huyết.Cả 2 đều có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, chỉ huyết. Nhưng A giao vị ngọt, tínhbình thiên về bổ huyết, chỉ huyết. Kiêm tư Phế, an thai, cầm huyết hư ra nhiều.Còn Lộc giác giao vị ngọt, mặn, tính ấm, thiên về ôn bổ Can,Thận, cố tinh. Phầnhỏa suy nhiều phải dùng Lộc giác giao” (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng ChỉMê). + Thục địa và A giao có tác dụng tư âm, bổ huyết nhưng Thục địa thiên vềbổ Thận âm, trấn tinh tủy mà bổ huyết còn A giao thiên về nhuận Phế, dưỡng Can,bổ huyết mà tư âm, chỉ huyết. Hễ âm hư, bất túc ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Vị thuốc a giao đông y trị bệnh cách chăm sóc sức khỏe bào chế thuốc tài liệu vị thuốc trị bệnhTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 237 0 0 -
7 trang 199 0 0
-
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 151 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 108 0 0 -
Một số thuật ngữ y học dân tộc thường dùng
6 trang 99 0 0 -
5 điều cần phải biết về căn bệnh ung thư da
5 trang 74 0 0 -
4 trang 70 0 0
-
Đau như 'kiến bò' hay 'điện giật' khi cột sống cổ bất hợp tác
5 trang 53 0 0 -
236 trang 50 0 0