Danh mục

Tìm hiểu về Giải Nobel sinh lý hay y học từ 1901 đến 2007: Phần 2

Số trang: 414      Loại file: pdf      Dung lượng: 13.23 MB      Lượt xem: 24      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nobel Sinh lý học và Y khoa được trao lần đầu tiên vào năm 1901 cho nhà y học người Đức Emil Adolf von Behring, cho những nghiên cứu của ông về chất huyết thanh, đặc biệt là phát triển một loại vắc xin để chống lại bệnh bạch hầu. Người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel Sinh lý học và Y khoa, Gerty Cori, vào năm 1947,... Mời các bạn cùng tham khảo phần 2 tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu về Giải Nobel sinh lý hay y học từ 1901 đến 2007: Phần 2Giải thưỏng Nobel về Sính lý hay Y học năm 1958 (lẩn thứ49) George Beadle, Edward Tatum(to khám phá gen điểu hòa những hiện tượng hóa học nhất định và Joshua Lederberg do khám phá liên quan đến tái tổ hợp gen và tổ chức các chất liệu gen ở vi khuẩn Giải thưởng Nobel về Sinh lý hay Y học lần thứ 49 (1958)được chia đôi một nửa cho George Beadle và Edward Tatum dokhám phá ra gen tác động điều hòa những hiện tượng hóa học,còn một nửa cho Joshua Lederberg do khám phá liên quan đếntái tổ hợp gen và tổ chức các chất liệu gen ở vi khuẩn. George Wells Beadle người Mỹ, sinh ở Wahoo, Nebraska, bố là chủ trại nên định bắt ông nôi nghiệp, nhưng thầy giáo dạy lý thấy ông tư chất thông minh lại thích khoa học, nên đã khuyên nên cho đi học tiếp. Sau trung học, năm 1922, ông vào khoa Nông nghiệp Đại học Nebraska, vào dịp nghỉ hè khi mới học năm thứ hai ông đã bắt tay vào nghiên cứu về lai giống ngô. Đỗ cử nhân khoa học năm 1926 và đỗ thac sĩ ngay năm G(« 03-?989)le sau’ ông tráp tục hạ2 lên Đại học Cornell dưới sự hướng dẫn của R.A. Emerson, mộtchuyên gia về gen học thực vật. Năm 1931, ông đã hoàn thànhluận án tiến sĩ về quá trình phân bào giảm nhiễm ở cây ngô.Được học bổng hai năm của Hội đồng nghiên cứu quốc gia, ôngđến làm việc tại ban sinh học Viện kỹ thuật California (Caltech)tại Paseda dưới quyền của Thomas Hunt Morgan, nhà gen họchàng đầu lúc bấy giờ (Nobel 1933). Ông được trao cho nghiên 367cứu hiện tượng bắt chéo86 thể nhiễm sắc trong phân bào và đãnhận thấy hiện tượng bắt chéo và tái tổ hợp các gen trong phânbào giảm nhiễm là ngẫu nhiên. Trong những năm 1933-1935,ông cùng vối nhà phôi thai học người Pháp Boris Ephrussi đangsang tham quan làm việc ở đấy, nghiên cứu về tác động của cáctính trạng di truyền có biểu hiện ra ngoài (kiểu hình) lên quátrình hóa sinh xảy ra trong cơ thể sinh vật. Sau đó, Beadle lạisang Pháp tiếp tục cùng với Ephrussi trong phòng thí nghiệmViện sinh học lý hóa Paris. Bằng cách ghép mô từ các chủngkhác nhau về tính trạng di truyền kiểu hình như mầu mắt củaruồi dấm, hai ông đã chứng minh là có một chất chịu sự điềuhòa của gen mã cho sắc tô, làm chuyển đổi sắc tố mầu mắt củacon ruồi. Sau này, Tatum tìm ra đó là gen mã cho enzym điềuhòa chuyển hóa tryptophan. Trở về Mỹ năm 1936, Beadle làmtrợ lý về gen học tại Đại học Harvard và năm sau thành giáo sưsinh học ở Đại học Standford. Năm 1946, ông rời Stanford trở lại Caltech làm giáo sư sinhhọc thay Morgan. Năm 1953, khi ông được bầu làm chủ tịchHiệp hội Mỹ về Tiến bộ của khoa học, ông đấu tranh cho việcgiảm giữ bí mật, cho sự thông thoáng hơn trong trao đổi các tintức về nghiên cứu. Năm 1961, ông lại rời Caltech về làm giámđốc Đại học Chicago, sau đó, ông lại trở lại Caltech làm ủy viênquản trị trường. Ngoài giải thưỏng Nobel, ông được nhiều giảithưởng khoa học có tiếng trong nước và là thành viên chínhthức hoặc danh dự của nhiều tổ chức khoa học trong và ngoàinước (Anh, Đan Mạch). Ông mất năm 1989. Edward Lawrie Tatum sinh năm 1909 tại Boulder, Colerado,Mỹ, con một giáo sư dược lý Đại học Wiscousin, nên ông sớm“ Khi tế bào phân chia các thể nhiễm sắc tách rời nhau từng cái một vá có thể có hai cáinằm vắt lẻn nhau như chữ X, rồi tách ngay chỗ vắt chéo trước khi rời nhau. Như thế mỏicái mói đưọc hình thành mang một nửa của mình và nửa mối của cái kia. Đó là hiệntưọng bắt chéo và thể nhiễm sac mối là lai.368được theo học trường thực nghiệm Đại học Chicago, trước khichuyển về Đại học Wiscousin. Ông đỗ cử nhân hóa, một nămsau đã đỗ thạc sĩ về vi sinh. Năm 1934, ông nhận bằng tiến sĩhóa sinh vối luận án về nhu cầu dinh dưỡng và hóa sinh ở tế bàovi khuẩn. Sau đó, ông làm trợ lý nghiên cứu hóa sinh ngay ở đó.Năm 1936, ông được học bổng sang Đại học Utrecht, Hà Lan.Trở vê Mỹ năm 1937, ông làm trợ lý nghiên cứu về sinh học Đạihọc Stanford và 4 năm sau là trợ lý giảng dạy. Trong Chiến tranh thế giói lần thứ hai, Tatum đã cải tiến và triển khai phương pháp nuôi cấy đại trà nấm mốc penicillum notatum, giúp cho tăng sản xuất hàng nghìn lần penicillin khi ấy rất cần cho mặt trận. Năm 1945, ông được bổ nhiệm làm giáo sư thực vật học tại Đại học Yale và năm 1946 là giáo sư vi sinh học. Chính ông đã hưống dẫn Joshua Ledeberg trong cEdward -1 .T ._ Tatum công trình . tái tổ hơp ; hữu tính (sexual ...

Tài liệu được xem nhiều: