Thông tin tài liệu:
Mục tiêu: Talc là tác nhân hóa học thường được dùng để làm dày dính màng phổi, có hiệu quả cao, được dung nạp tốt. Tuy có vài báo cáo về hội chứng nguy ngập hô hấp cấp tính liên quan đến sự an toàn của thủ thuật này, nhưng khoa chúng tôi (khoa bệnh hô hấp nam, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ chí Minh, Việt Nam) đã quyết định sử dụng talc nhũ tương làm dày dính màng phổi theo khuyến cáo điều trị tràn khí màng phổi tự phát của Hội Bác Sĩ Lồng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tính An Toàn Của điều Trị Phòng Ngừa Tái Phát Tràn Khí Màng Phổi Tự Phát Tính An Toàn Của điều Trị Phòng Ngừa Tái Phát Tràn Khí Màng Phổi Tự PhátMục tiêu: Talc là tác nhân hóa học thường được dùng để làm dày dính màng phổi,có hiệu quả cao, được dung nạp tốt. Tuy có vài báo cáo về hội chứng nguy ngậphô hấp cấp tính liên quan đến sự an toàn của thủ thuật này, nhưng khoa chúng tôi(khoa bệnh hô hấp nam, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ chí Minh,Việt Nam) đã quyết định sử dụng talc nhũ t ương làm dày dính màng phổi theokhuyến cáo điều trị tràn khí màng phổi tự phát của Hội Bác Sĩ Lồng ngực Hoa Kỳnăm 2001.Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu được thực hiện trên 75 trường hợp tràn khímàng phổi tự phát, được làm dày dính màng phổi bằng talc nhũ tương tại khoabệnh hô hấp nam, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Mục đích nghi ên cứu là đánh giátất cả các biến chứng xảy ra trong vòng 96 giờ sau khi bơm talc nhũ tương vàokhoang màng phổi.Kết quả: Có 75 lần làm dày dính màng phổi bằng talc trên 75 bệnh nhân tràn khímàng phổi tự phát. Tác dụng phụ bao gồm đau ngực (n = 65; 86,67%), kh ó thở (n= 40; 53,33%), sốt > 380C (n=13; 17,33%), nhịp tim nhanh > 100 lần/phút (n=20;26,67%). Không có biến chứng giảm oxy máu, giảm huyết áp, hội chứng nguyngập hô hấp cấp tính và tử vong.Kết luận: Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng bơm talc nhũ tương vào khoang màngphổi là thủ thuật hữu ích trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát. Không có tửvong liên quan đến thủ thuật.Qui trình làm dày dính màng phổi+ 33 bệnh nhân đầu tiên chúng tôi cho họ sử dụng Prodafalgan 1gram (tiêm mạchchậm) nhưng do không còn prodafalgan trên thị trường, nên 42 bệnh nhân tiếptheo chúng tôi cho họ sử dụng paracetamol 1gram (truyền tĩnh mạch) + Atropin0,5 mg (tiêm dưới da) + Diazepam 5 mg (uống) + 12ml Lidocain 2% pha trong 3 0ml nước muối sinh lý bơm vào khoang màng phổi. 30 phút sau, bơm vào khoangmàng phổi 2 gram bột Talc y khoa đã được hấp vô trùng, pha trong 50 ml nướcmuối sinh lý.Sau khi bơm thuốc, ống dẫn lưu màng phổi vẫn được kẹp (đối với trường hợp ốngdẫn lưu màng phổi đã ngưng hoạt động và được kẹp 24 giờ trước đó), hay luôn giữống dẫn lưu cao hơn thành ngực trong 6 giờ để lưu thuốc lại trong khoang màngphổi (đối với trường hợp phổi đã nở hoàn toàn nhưng ống dẫn lưu còn hoạt động).+ Thời điểm rút ống dẫn lưu: 24 giờ kể từ khi bơm talc nhũ tương vào khoangmàng phổi (đối với trường hợp ống dẫn lưu màng phổi đã ngưng hoạt động vàđược kẹp 24 giờ trước khi bơm), hay 24 giờ kể từ khi kẹp ống dẫn lưu màng phổiđã ngưng hoạt động sau khi bơm talc (đối với trường hợp phổi đã nở hoàn toànnhưng ống dẫn lưu còn hoạt động).+ Chụp X quang lồng ngực kiểm tra xem có tràn khí màng phổi sau rút ống dẫnlưu.KẾT LUẬNMặc dù gây đau ngực, tăng nhẹ thân nhiệt, và cảm giác khó thở cho bệnh nhân,nhưng chúng tôi cho rằng talc là tác nhân an toàn để làm dày dính màng phổi ngừatái phát tràn khí màng phổi tự phát.Việc bơm talc nhũ tương vào khoang màng phổi qua ống dẫn lưu không được kẹplại, trong trường hợp ống dẫn lưu màng phổi còn hoạt động nhiều ngày sau khiphổi đã nở hoàn toàn, đã giúp cho bệnh nhân tránh được thủ thuật mổ nội soi lồngngực, hay phẫu thuật mở lồng ngực để vá lại vết rách màng phổi.Tuy nhiên, chúng tôi cần tiếp tục nghiên cứu để theo dõi thời gian dài hơn (> 2năm) nhằm mục đích khẳng định tính an toàn, cũng như hiệu quả làm dày dínhmàng phổi của talc nhũ tương bơm qua ống dẫn lưu màng phổi.