Danh mục

Tính hiện đại của Thơ mới Việt Nam xét trên phương diện ngôn từ _2

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 167.26 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vượt ra ngoài không gian văn học vùng để tham gia vào một không gian văn học rộng lớn hơn là chiều hướng vận động có tính tất yếu đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, trong đó có thơ. Đó cũng chính là quá trình hiện đại hóa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tính hiện đại của Thơ mới Việt Nam xét trên phương diện ngôn từ _2Tính hiện đại của Thơ mớiViệt Nam xét trên phương diện ngôn từ Vượt ra ngoài không gian văn học vùng để tham gia vào một không gian văn họcrộng lớn hơn là chiều hướng vận động có tính tất yếu đối với văn học Việt Nam đầu thếkỉ XX, trong đó có thơ. Đó cũng chính là quá trình hiện đại hóa. Đối với văn họcViệt Nam, do trực tiếp tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn học Pháp, nên quá trình đócũng chính là thế giới hóa và phương Tây hóa. Quá trình ấy diễn ra trên nhiều bình diện,từ sự cảm nhận thế giới, sự đồng hóa thế giới thành nội dung nghệ thuật đến sự sáng tạovà vận dụng các phương tiện diễn đạt… theo tinh thần hiện đại. Bài viết này chỉ nhấnmạnh một số biểu hiện tính hiện đại trên phương diện ngôn từ, một trong những vấn đềquan trọng đối với các nhà thơ trong phong trào thơ mới 1932-1945. 1. Trong văn học phương Tây, văn học tiền hiện đại chủ yếu chú trọng phương diệnnội dung, xem vấn đề đề tài, chủ đề, nội dung các hình tượng quyết định giá trị của một tácphẩm. Văn học lãng mạn ra đời được xem như một “hủy thể” của chủ nghĩa cổ điển, tuynhiên, do hầu hết các nhà văn lãng mạn gắn hoạt động văn học với những hoạt động xã hộivà do sáng tạo trong thời đại người phương Tây đang còn lạc quan về quyền năng của tư duyduy lí nên sự đối lập với văn học cổ điển chủ yếu biểu hiện ở khuynh hướng tự do hóa, đề caocảm xúc và tưởng tượng cá nhân, phản ứng tính công thức, qui phạm... Và vì vậy, dù đólà “một sự bùng nổ kinh động”, là “chân trời không giới hạn”…, nhưng nhìn chung, sự quantâm của các nghệ sĩ lãng mạn chủ yếu vẫn thiên về cái được biểu đạt chứ không phải cái biểuđạt. Sau sự thoái trào của trào lưu này, tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạtdường như có sự sắp xếp lại, đặc biệt trong lĩnh vực ngôn từ, gắn liền với tinh thần “vị nghệthuật”, bắt đầu từ phái Parnasse, và sau đó là sự ra đời của trào lưu hiện đại chủ nghĩa. Về sựhoán vị tương quan giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, Roland Barthes đã nêu nhận xétthú vị, có tính tổng kết: “Ý nhị cổ điển là ý nhị về các mối quan hệ, chứ không phải về từ: đólà nghệ thuật biểu đạt chứ không phải nghệ thuật phát minh…, người ta thích thú vì cáchtrình bày chúng chứ không phải vì sức mạnh và vẻ đẹp riêng của nó”(1). Trên thực tế, vai trò của ngôn từ được đề cao một cách đặc biệt từ thế hệ các nhà thơtượng trưng cuối thế kỉ XIX. Stéphane Mallarmé từng cho rằng thơ trước tiên là “ma thuậtngôn từ” và kêu gọi “hãy nhường sáng kiến cho những từ”. Cùng thời với Mallarmé, ArthurRimbaud – một thiên tài vụt sáng - say mê phát minh “những loài hoa mới”, “những tinh cầumới”, những ngôn ngữ mới chưa từng bị “ô uế”. Ông quan niệm chữ viết là một kinh nghiệmtự thân, nó “không tìm cách khoanh vòng thực tại mà (phải) là một phát kiến mới mẻ”(2). Đứacon nghịch đạo của thế kỉ cực trị của tinh thần duy lí đã dứt khoát với ý nghĩ “lĩnh vực củakhoa học là lĩnh vực mà sự vật hiện diện ấy thôi, chứ chưa phải lĩnh vực mà sự vật thể hiện ýnghĩa”(3), ý nghĩa hay linh hồn sự vật mới là điều đáng nói, chính nó mới làm nên giá trị chonhà thơ. Nỗi bận tâm của Mallarmé hay Rimbaud đã trở thành nỗi bận tâm có tính đại điệncho nhiều thế hệ nhà thơ hiện đại. Và không phải ngẫu nhiên, không ít nhà thơ đã nhìn thấy ởRimbaud hình ảnh một nhà thơ “tiên tri”, một người “ăn trộm lửa thiêng” trong công cuộctìm kiếm ngôn từ mới, giải thoát nó khỏi vai trò vật lệ thuộc hay phương tiện thông tin vềphong tục hoặc mô tả đời sống thường nhật. Muộn hơn, và cũng với tinh thần ấy, các học giảphái hình thức Nga đầu thế kỉ XX đã nêu yêu cầu sáng tạo ngôn từ thành vấn đề có tính líluận, xem đó như là “yếu tố đặc biệt tạo điều kiện cho sự tồn tại của một tác phẩm vănhọc”(4), thậm chí coi “lịch sử của thơ ca là lịch sử của ngôn từ”. Nhìn chung, sự thay đổi từ quan niệm đến sự sáng tạo và sử dụng ngôn từ là một trongnhững thay đổi quan trọng của văn học hiện đại thế giới, và xu hướng của văn học hiện đại làngôn ngữ phải trở thành công cụ khám phá thế giới của những điều chưa biết và bản thân nócũng phải trở thành một khám phá. Tính hiện đại của thơ trên phương diện ngôn từ về cơ bảngắn liền với cốt lõi quan niệm ấy. 2. Tính hiện đại của thơ mới như thế nào? Trong Đổi mới phê bình văn học, Đỗ ĐứcHiểu nhìn nhận: “Thơ mới là một sáng tạo ngôn từ thơ về nhiều mặt; nó mở rộng câu thơ, bàithơ; nó đi vào chiều sâu của thơ bằng cấu trúc mới, cú pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới”.Đó là một sự thay đổi toàn diện về mặt ngôn ngữ thơ, gắn liền với một thời đại thơ đangchuyển mình theo hướng hiện đại hóa. Tuy nhiên, những đổi mới ngôn từ của thơ mới khôngchỉ dừng ở những thay đổi về hình thức, mà còn có những thay đổi trên những bình diện kháccó chiều sâu hơn, có tính “nổi loạn” hơn, gắn với cách nhìn và cách diễn đạt mới về thế giớivà đời sống, và tuy mới dừng lại ở một bộ phận các nhà thơ nhưng nói được rất nhiều về triểnvọng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: