Tính phức tạp khi áp dụng IFRS: Nghiên cứu về tổn thất lợi thế thương mại
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 302.08 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nội dung bài viết trình bày việc xác định GTHL và giá trị sử dụng thực sự là một thách thức cho các doanh nghiệp (DN) lần đầu áp dụng chuẩn mực do dựa quá nhiều vào các sự kiện không chắc chắn trong tương lai, xét đoán của các nhà quản lý và sự ước tính chủ quan. Với trường hợp minh chứng của Hồng Kông, nghiên cứu chỉ ra rằng trong năm đầu áp dụng IAS 36 thì tính tuân thủ rất thấp do nhiều lý do khác nhau. Theo đó, nhiều hàm ý đưa ra cho Việt Nam trong việc ban hành và thực hiện chuẩn mực tổn thất tài sản trong tương lai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tính phức tạp khi áp dụng IFRS: Nghiên cứu về tổn thất lợi thế thương mại n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam TÍNH PHỨC TẠP KHI ÁP DỤNG IFRS: NGHIÊN CỨU VỀ TỔN THẤT LỢI THẾ THƯƠNG MẠI #PGS. TS. Trần Mạnh Dũng (CPA) Đại học Kinh tế quốc dân Trong trường hợp giá trị có thể thu hồi của tài sản thấp hơn giá trị ghi sổ thì kế toán xuất hiện chi phí tổn thất tài sản. Giá trị có thể thu hồi được xác định là giá lớn hơn giữa giá trị hợp lý (GTHL) trừ đi chi phí để bán và giá trị sử dụng. Việc xác định GTHL và giá trị sử dụng thực sự là một thách thức cho các doanh nghiệp (DN) lần đầu áp dụng chuẩn mực do dựa quá nhiều vào các sự kiện không chắc chắn trong tương lai, xét đoán của các nhà quản lý và sự ước tính chủ quan. Với trường hợp minh chứng của Hồng Kông, nghiên cứu chỉ ra rằng trong năm đầu áp dụng IAS 36 thì tính tuân thủ rất thấp do nhiều lý do khác nhau. Theo đó, nhiều hàm ý đưa ra cho Việt Nam trong việc ban hành và thực hiện chuẩn mực tổn thất tài sản trong tương lai. Từ khóa: IFRS, tổn thất tài sản, tổn thất lợi thế thương mại (LTTM), Việt Nam Giới thiệu về tổn thất của LTTM Để đạt được mục tiêu không ghi nhận tài sản cao hơn giá trị có thể thu hồi, LTTM có được trong hợp nhất kinh doanh được coi là tài sản cần được đánh giá hàng năm để xem xét giảm giá trị. Thực hiện kiểm tra giảm giá trị của LTTM là một quá trình phức tạp, dựa trên nhiều giả định mang tính chủ quan như nhận diện đơn vị tạo tiền; phân bổ LTTM cho đơn vị tạo tiền; đo lường giá trị của đơn vị tạo tiền; xác định chi phí giảm giá trị của LTTM; thời gian kiểm tra giảm giá trị của LTTM; và các trình bày. Một là, Xác định đơn vị tạo tiền Theo đoạn 6 của chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc tế số 36 (IAS 36), đơn vị tạo tiền là nhóm tài sản nhận diện nhỏ nhất mà nó tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng tiền vào từ những tài sản khác hoặc nhóm các tài sản khác. CMKT số 36 tuyên bố rằng xác định đơn vị tạo tiền liên quan đến phán xét nghề nghiệp. Theo đó, có hai việc cần thực hiện. Thứ nhất là nhận diện nhóm tài sản nhỏ nhất mà luồng tiền vào có thể được chỉ ra. Nhóm những tài sản này có thể là các đơn vị tạo tiền nếu luồng tiền vào không bị tác động bởi các tài sản khác. Thứ hai, nếu luồng tiền được tạo ra bởi nhóm tài sản không độc lập lớn với các tài sản khác thì các tài sản khác được cộng vào nhóm tài sản đó, để tạo ra nhóm tài sản nhỏ nhất mà có thể tạo ra luồng tiền vào độc lập. Sự tồn tại thị trường cho tài sản hoặc đơn vị tạo tiền cũng là đặc điểm quan trọng trong xác định đơn vị tạo tiền. Đoạn 70 trình bày nếu có thị trường tồn tại cho nhóm tài sản thì nhóm tài sản đó được coi như một đơn vị tạo tiền. Nguyên tắc cơ bản đó là tồn tại thị trường 200 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam hoạt động minh chứng rằng một tài sản hay đơn vị tạo tiền có thể tạo ra luồng tiền độc lập thông qua bán sản phẩm trên thị trường. Quy mô hay mức độ tổng hợp ở mức mà đơn vị tạo tiền được xác định cho mục đích kiểm tra giảm giá trị được xác định. Theo đoạn 80, mỗi đơn vị hay nhóm các đơn vị mà LTTM được phân bổ sẽ phản ánh mức nhỏ nhất mà ở mức đó LTTM bị kiểm soát cho mục đích quản trị nội bộ và không lớn hơn bộ phận kinh doanh được xác định theo chuẩn mực bộ phận kinh doanh. Cũng theo IAS 36, các đơn vị tạo tiền sẽ được xác định nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác cho các tài sản hoặc các loại tài sản. Hai là, Phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền LTTM không tạo ra luồng tiền độc lập với các tài sản khác hoặc nhóm các tài sản vào thường gắn liền với luồng tiền của nhiều đơn vị tạo tiền. Do đó, LTTM được kiểm tra giảm giá trị bằng việc phân bổ cho các đơn vị tạo tiền hoặc nhóm các đơn vị tạo tiền. Đối với quá trình kiểm tra giảm giá trị của LTTM, LTTM có được từ hợp nhất kinh doanh sẽ được phân bổ cho các đơn vị tạo tiền hoặc nhóm các đơn vị tạo tiền. Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị hoàn thành việc phân bổ trước kỳ hàng năm. Trong trường hợp này, đoạn 84 quy định rằng “nếu phân bổ ban đầu của LTTM không thể hoàn thành trước kỳ kết thúc năm tài chính mà hợp nhất kinh doanh bị ảnh hưởng, thì phân bổ ban đầu sẽ được hoàn thành trước khi kết thúc kỳ năm đầu tiên sau ngày mua bán sáp nhập”. Việc phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền hay nhóm đơn vị tạo tiền là công việc quan trọng mà những người lập báo cáo tài chính phải tuân thủ. Vấn đề này cũng để lại nhiều tranh luận và tạo cho các nhà quản lý có những giải thích riêng, phán xét chủ quan và thiên vị khi thực hiện phương pháp kiểm tra giảm giá trị của LTTM. Kết quả là nếu phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền không đúng sẽ ảnh hưởng đến chi phí giảm giá trị trong quá trình kiểm tra giảm giá trị của LTTM. Ba là, Đo lường giá trị có thể thu hồi của các đơn vị tạo tiền Tài sản của đơn vị bình thường được ghi nhận theo giá gốc tại thời điểm mua. Sau đó, tài sản bị đánh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tính phức tạp khi áp dụng IFRS: Nghiên cứu về tổn thất lợi thế thương mại n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam TÍNH PHỨC TẠP KHI ÁP DỤNG IFRS: NGHIÊN CỨU VỀ TỔN THẤT LỢI THẾ THƯƠNG MẠI #PGS. TS. Trần Mạnh Dũng (CPA) Đại học Kinh tế quốc dân Trong trường hợp giá trị có thể thu hồi của tài sản thấp hơn giá trị ghi sổ thì kế toán xuất hiện chi phí tổn thất tài sản. Giá trị có thể thu hồi được xác định là giá lớn hơn giữa giá trị hợp lý (GTHL) trừ đi chi phí để bán và giá trị sử dụng. Việc xác định GTHL và giá trị sử dụng thực sự là một thách thức cho các doanh nghiệp (DN) lần đầu áp dụng chuẩn mực do dựa quá nhiều vào các sự kiện không chắc chắn trong tương lai, xét đoán của các nhà quản lý và sự ước tính chủ quan. Với trường hợp minh chứng của Hồng Kông, nghiên cứu chỉ ra rằng trong năm đầu áp dụng IAS 36 thì tính tuân thủ rất thấp do nhiều lý do khác nhau. Theo đó, nhiều hàm ý đưa ra cho Việt Nam trong việc ban hành và thực hiện chuẩn mực tổn thất tài sản trong tương lai. Từ khóa: IFRS, tổn thất tài sản, tổn thất lợi thế thương mại (LTTM), Việt Nam Giới thiệu về tổn thất của LTTM Để đạt được mục tiêu không ghi nhận tài sản cao hơn giá trị có thể thu hồi, LTTM có được trong hợp nhất kinh doanh được coi là tài sản cần được đánh giá hàng năm để xem xét giảm giá trị. Thực hiện kiểm tra giảm giá trị của LTTM là một quá trình phức tạp, dựa trên nhiều giả định mang tính chủ quan như nhận diện đơn vị tạo tiền; phân bổ LTTM cho đơn vị tạo tiền; đo lường giá trị của đơn vị tạo tiền; xác định chi phí giảm giá trị của LTTM; thời gian kiểm tra giảm giá trị của LTTM; và các trình bày. Một là, Xác định đơn vị tạo tiền Theo đoạn 6 của chuẩn mực kế toán (CMKT) quốc tế số 36 (IAS 36), đơn vị tạo tiền là nhóm tài sản nhận diện nhỏ nhất mà nó tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng tiền vào từ những tài sản khác hoặc nhóm các tài sản khác. CMKT số 36 tuyên bố rằng xác định đơn vị tạo tiền liên quan đến phán xét nghề nghiệp. Theo đó, có hai việc cần thực hiện. Thứ nhất là nhận diện nhóm tài sản nhỏ nhất mà luồng tiền vào có thể được chỉ ra. Nhóm những tài sản này có thể là các đơn vị tạo tiền nếu luồng tiền vào không bị tác động bởi các tài sản khác. Thứ hai, nếu luồng tiền được tạo ra bởi nhóm tài sản không độc lập lớn với các tài sản khác thì các tài sản khác được cộng vào nhóm tài sản đó, để tạo ra nhóm tài sản nhỏ nhất mà có thể tạo ra luồng tiền vào độc lập. Sự tồn tại thị trường cho tài sản hoặc đơn vị tạo tiền cũng là đặc điểm quan trọng trong xác định đơn vị tạo tiền. Đoạn 70 trình bày nếu có thị trường tồn tại cho nhóm tài sản thì nhóm tài sản đó được coi như một đơn vị tạo tiền. Nguyên tắc cơ bản đó là tồn tại thị trường 200 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam hoạt động minh chứng rằng một tài sản hay đơn vị tạo tiền có thể tạo ra luồng tiền độc lập thông qua bán sản phẩm trên thị trường. Quy mô hay mức độ tổng hợp ở mức mà đơn vị tạo tiền được xác định cho mục đích kiểm tra giảm giá trị được xác định. Theo đoạn 80, mỗi đơn vị hay nhóm các đơn vị mà LTTM được phân bổ sẽ phản ánh mức nhỏ nhất mà ở mức đó LTTM bị kiểm soát cho mục đích quản trị nội bộ và không lớn hơn bộ phận kinh doanh được xác định theo chuẩn mực bộ phận kinh doanh. Cũng theo IAS 36, các đơn vị tạo tiền sẽ được xác định nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác cho các tài sản hoặc các loại tài sản. Hai là, Phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền LTTM không tạo ra luồng tiền độc lập với các tài sản khác hoặc nhóm các tài sản vào thường gắn liền với luồng tiền của nhiều đơn vị tạo tiền. Do đó, LTTM được kiểm tra giảm giá trị bằng việc phân bổ cho các đơn vị tạo tiền hoặc nhóm các đơn vị tạo tiền. Đối với quá trình kiểm tra giảm giá trị của LTTM, LTTM có được từ hợp nhất kinh doanh sẽ được phân bổ cho các đơn vị tạo tiền hoặc nhóm các đơn vị tạo tiền. Tuy nhiên, không phải tất cả các đơn vị hoàn thành việc phân bổ trước kỳ hàng năm. Trong trường hợp này, đoạn 84 quy định rằng “nếu phân bổ ban đầu của LTTM không thể hoàn thành trước kỳ kết thúc năm tài chính mà hợp nhất kinh doanh bị ảnh hưởng, thì phân bổ ban đầu sẽ được hoàn thành trước khi kết thúc kỳ năm đầu tiên sau ngày mua bán sáp nhập”. Việc phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền hay nhóm đơn vị tạo tiền là công việc quan trọng mà những người lập báo cáo tài chính phải tuân thủ. Vấn đề này cũng để lại nhiều tranh luận và tạo cho các nhà quản lý có những giải thích riêng, phán xét chủ quan và thiên vị khi thực hiện phương pháp kiểm tra giảm giá trị của LTTM. Kết quả là nếu phân bổ LTTM cho các đơn vị tạo tiền không đúng sẽ ảnh hưởng đến chi phí giảm giá trị trong quá trình kiểm tra giảm giá trị của LTTM. Ba là, Đo lường giá trị có thể thu hồi của các đơn vị tạo tiền Tài sản của đơn vị bình thường được ghi nhận theo giá gốc tại thời điểm mua. Sau đó, tài sản bị đánh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chuẩn mực kế toán IFRS Lợi thế thương mại Tổn thất tài sản Kế toán doanh nghiệp Doanh nghiệp hợp nhất kinh doanhGợi ý tài liệu liên quan:
-
3 trang 302 0 0
-
Kế toán cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp
52 trang 249 0 0 -
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
156 trang 212 0 0 -
92 trang 192 5 0
-
53 trang 162 0 0
-
163 trang 140 0 0
-
Bảng cân đối kế toán, kết cấu, nội dung và phương pháp lập bảng cân đối kế toán
7 trang 129 0 0 -
Vận dụng các kiến thức của môn triết học trong môn nguyên lý kế toán, kiểm toán căn bản
9 trang 113 0 0 -
4 trang 112 0 0
-
Lý thuyết - bài tập - bài giải mẫu và câu hỏi trắc nghiệm Kế toán thương mại - dịch vụ: Phần 1
253 trang 112 0 0