Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau
Số trang: 28
Loại file: pdf
Dung lượng: 401.92 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luận án nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau; hệ thống hóa và phát triển hệ thống lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm; đánh giá được thực trạng liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM PHÙNG GIANG HẢILIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN TÔM THƯƠNG PHẨM Ở TỈNH CÀ MAU CHUYÊN NGANH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số : 62 62 01 15 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÀ NỘI - 2015Công trình hoàn thành tại: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAMNgười hướng dẫn: 1. PGS.TS. PHẠM BẢO DƯƠNG 2. TS. NGUYỄN THỊ DƯƠNG NGAPhản biện 1: GS. TS. HOÀNG NGỌC VIỆT Trường Đại học kinh tế quốc dânPhản biện 2: PGS. TS. NGÔ THỊ THUẬN Học viện Nông nghiệp Việt NamPhản biện 3: PGS. TS. NGUYỄN KHÁNH DOANH Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái NguyênLuận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2015Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam - Thư viện Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN1. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2011). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 174 (II), 93-98.2. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2013). Tăng cường liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm ở tỉnh Cà Mau: Một số vấn đề lí luận và bài học kinh nghiệm, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 188 (II), 33-39.3. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2014). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm ở tỉnh Cà Mau, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 2:231-238 PHẦN 1. MỞ ĐẦU1.1. TÍNH CẤP THIẾT Ngành tôm của Việt Nam đã và vẫn đang tiếp tục gặt hái đượcnhiều thành công đáng kể, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chungcủa đất nước (Tổng cục Thủy sản, 2013). Tuy nhiên, ngành này hiện cũngđang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là về đảm bảonguồn tôm nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao cho chế biến. Số liệuthống kê của tỉnh Cà Mau - tỉnh có nghề nuôi tôm lớn hàng đầu Việt Namcho thấy nguồn tôm nguyên liệu vào thời điểm chính vụ cũng chỉ đáp ứngtối đa 60% công suất các nhà máy chế biến trong tỉnh (Hội Chế biến vàXuất khẩu thủy sản Cà Mau - CASEP, 2013). Nguyên nhân là do phần lớncác diện tích nuôi tôm hiện nay vẫn phát triển tự phát, manh mún với cơsở hạ tầng (CSHT) ít được đầu tư bài bản, quy trình nuôi không thốngnhất nên dịch bệnh nhiều, chất lượng tôm thấp. Sự thiếu kết nối giữa khu vực chế biến và khu vực sản xuất nguyênliệu trong ngành tôm cũng góp phần tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọngvề cung cầu giữa 2 khu vực này. Vùng đồng bằng sông Cửu Long(ÐBSCL) hiện có 206 nhà máy chế biến thủy sản, chủ yếu là chế biến cátra và tôm, với tổng công suất chế biến hơn 1,1 triệu tấn/năm (ViệnKT&QHTS, 2012). Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh số lượng các nhàmáy chế biến trong khi nguồn nguyên liệu có hạn và ngày càng bị hạn chếdo sự gia tăng các rủi ro từ thiên nhiên, dịch bệnh… khiến cho các nhàmáy chế biến ngày càng lâm vào cảnh thiếu nguyên liệu triền miên. TạiCà Mau, năm 2013 sản lượng chế biến của toàn tỉnh Cà Mau là khoảng 85ngàn tấn tương đương với 40% tổng công suất thiết kế của các nhà máychế biến tại Cà Mau (CASEP, 2014). Rõ ràng, tình trạng phát triển tự phátcả về cung cấp nguyên liệu và chế biến đang đe dọa đến tính bền vững củacả chuỗi sản phẩm với tình trạng “khát nguyên liệu” thường xuyên. Mặtkhác, thiếu liên kết còn tạo ra khoảng trống lớn trong giám sát chất lượngnguyên liệu đưa vào chế biến - theo thống kê, chỉ trong 10 tháng đầu năm2014, các doanh nghiệp chế biến tôm của Cà Mau đã phải bị trả lại hơn1,1 ngàn tấn sản phẩm do vi phạm các quy định về dư lượng kháng sinh,ước thiệt hại khoảng 12,3 triệu USD (UBND tỉnh Cà Mau, 2014). Tuynhiên, con số thiệt hại này mới chỉ là “bề nổi của tảng băng” vì nhữngthiệt hại về uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam cộng với những chi phíphát sinh do tỷ lệ tôm Việt Nam bị đưa vào kiểm nghiệm trước khi nhậpkhẩu tăng lên sẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần. Trong khi thiếu liên kết giữakhâu chế biến với khâu nuôi tôm là một trong những nguyên nhân chínhgây mất cân đối cung cầu thì thiếu liên kết giữa những người nuôi tôm 1cũng làm mất đi khả năng tạo ra được một lượng cung tôm đủ lớn và ổnđịnh, đủ tiêu chuẩn chất lượng. Tính đến hết năm 2013, toàn tỉnh Cà Maucó hơn 266 ngàn ha nuôi tôm, chủ yếu theo hình thức quảng canh và môhình tổ chức sản xuất chính là các hộ gia đình cá thể (Sở NN&PTNT CàMau, 2013). Chính hình thức sản xuất này đã tạo nên tính manh mún, nhỏlẻ và phân tán của hoạt động sản xu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM PHÙNG GIANG HẢILIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN TÔM THƯƠNG PHẨM Ở TỈNH CÀ MAU CHUYÊN NGANH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số : 62 62 01 15 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÀ NỘI - 2015Công trình hoàn thành tại: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAMNgười hướng dẫn: 1. PGS.TS. PHẠM BẢO DƯƠNG 2. TS. NGUYỄN THỊ DƯƠNG NGAPhản biện 1: GS. TS. HOÀNG NGỌC VIỆT Trường Đại học kinh tế quốc dânPhản biện 2: PGS. TS. NGÔ THỊ THUẬN Học viện Nông nghiệp Việt NamPhản biện 3: PGS. TS. NGUYỄN KHÁNH DOANH Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái NguyênLuận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2015Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam - Thư viện Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN1. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2011). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 174 (II), 93-98.2. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2013). Tăng cường liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm ở tỉnh Cà Mau: Một số vấn đề lí luận và bài học kinh nghiệm, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 188 (II), 33-39.3. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2014). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm ở tỉnh Cà Mau, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 2:231-238 PHẦN 1. MỞ ĐẦU1.1. TÍNH CẤP THIẾT Ngành tôm của Việt Nam đã và vẫn đang tiếp tục gặt hái đượcnhiều thành công đáng kể, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chungcủa đất nước (Tổng cục Thủy sản, 2013). Tuy nhiên, ngành này hiện cũngđang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là về đảm bảonguồn tôm nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao cho chế biến. Số liệuthống kê của tỉnh Cà Mau - tỉnh có nghề nuôi tôm lớn hàng đầu Việt Namcho thấy nguồn tôm nguyên liệu vào thời điểm chính vụ cũng chỉ đáp ứngtối đa 60% công suất các nhà máy chế biến trong tỉnh (Hội Chế biến vàXuất khẩu thủy sản Cà Mau - CASEP, 2013). Nguyên nhân là do phần lớncác diện tích nuôi tôm hiện nay vẫn phát triển tự phát, manh mún với cơsở hạ tầng (CSHT) ít được đầu tư bài bản, quy trình nuôi không thốngnhất nên dịch bệnh nhiều, chất lượng tôm thấp. Sự thiếu kết nối giữa khu vực chế biến và khu vực sản xuất nguyênliệu trong ngành tôm cũng góp phần tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọngvề cung cầu giữa 2 khu vực này. Vùng đồng bằng sông Cửu Long(ÐBSCL) hiện có 206 nhà máy chế biến thủy sản, chủ yếu là chế biến cátra và tôm, với tổng công suất chế biến hơn 1,1 triệu tấn/năm (ViệnKT&QHTS, 2012). Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh số lượng các nhàmáy chế biến trong khi nguồn nguyên liệu có hạn và ngày càng bị hạn chếdo sự gia tăng các rủi ro từ thiên nhiên, dịch bệnh… khiến cho các nhàmáy chế biến ngày càng lâm vào cảnh thiếu nguyên liệu triền miên. TạiCà Mau, năm 2013 sản lượng chế biến của toàn tỉnh Cà Mau là khoảng 85ngàn tấn tương đương với 40% tổng công suất thiết kế của các nhà máychế biến tại Cà Mau (CASEP, 2014). Rõ ràng, tình trạng phát triển tự phátcả về cung cấp nguyên liệu và chế biến đang đe dọa đến tính bền vững củacả chuỗi sản phẩm với tình trạng “khát nguyên liệu” thường xuyên. Mặtkhác, thiếu liên kết còn tạo ra khoảng trống lớn trong giám sát chất lượngnguyên liệu đưa vào chế biến - theo thống kê, chỉ trong 10 tháng đầu năm2014, các doanh nghiệp chế biến tôm của Cà Mau đã phải bị trả lại hơn1,1 ngàn tấn sản phẩm do vi phạm các quy định về dư lượng kháng sinh,ước thiệt hại khoảng 12,3 triệu USD (UBND tỉnh Cà Mau, 2014). Tuynhiên, con số thiệt hại này mới chỉ là “bề nổi của tảng băng” vì nhữngthiệt hại về uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam cộng với những chi phíphát sinh do tỷ lệ tôm Việt Nam bị đưa vào kiểm nghiệm trước khi nhậpkhẩu tăng lên sẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần. Trong khi thiếu liên kết giữakhâu chế biến với khâu nuôi tôm là một trong những nguyên nhân chínhgây mất cân đối cung cầu thì thiếu liên kết giữa những người nuôi tôm 1cũng làm mất đi khả năng tạo ra được một lượng cung tôm đủ lớn và ổnđịnh, đủ tiêu chuẩn chất lượng. Tính đến hết năm 2013, toàn tỉnh Cà Maucó hơn 266 ngàn ha nuôi tôm, chủ yếu theo hình thức quảng canh và môhình tổ chức sản xuất chính là các hộ gia đình cá thể (Sở NN&PTNT CàMau, 2013). Chính hình thức sản xuất này đã tạo nên tính manh mún, nhỏlẻ và phân tán của hoạt động sản xu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế nông nghiệp Chế biến tôm thương phẩm Tỉnh Cà Mau Luận án Tiến sĩ Chế biến thủy sản Tôm thương phẩmGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 430 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 385 1 0 -
174 trang 334 0 0
-
206 trang 305 2 0
-
228 trang 272 0 0
-
Giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
8 trang 259 0 0 -
32 trang 230 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 225 0 0 -
208 trang 219 0 0
-
27 trang 199 0 0