Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Số trang: 27
Loại file: pdf
Dung lượng: 353.21 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm xây dựng cơ sở khoa học nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN HỮU CHÍNH QUAN HỆ PHỐI HỢPGIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 9 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI, 2020 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Lê Thị Hương 2. PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn Phản biện 1: …………………………………………. Phản biện 2: …………………………………………. Phản biện 3: ………………………………………….Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học việnĐịa điểm: Phòng ….tầng…..nhà…… Học viện Hành chính Quốc giaSố: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - Hà NộiThời gian: Vào hồi........giờ.......ngày.......tháng.......năm....... MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền lực nhà nước (QLNN) vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêucực. Mặt tích cực đó là QLNN có sức mạnh bảo đảm hoạt động hướng đíchcủa xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ lợi ích của cộng đồngvà của mỗi cá nhân. Mặt tiêu cực là QLNN có khuynh hướng lộng quyền vàlạm quyền. Khuynh hướng đó là biểu hiện của sự tha hoá QLNN trong quátrình vận động và phát triển. Khi QLNN bị tha hóa thì đều dẫn đến nhữnghậu quả tai hại mà người phải gánh chịu chính là Nhân dân - chủ nhân đíchthực của QLNN. Theo sử gia Lord Acton (1834-1902): “Quyền lực có xuhướng hủ hóa, quyền lực tuyệt đối có xu hướng hủ hóa tuyệt đối”. Nhà nướclà chủ thể nắm giữ quyền lực to lớn nhất với phạm vi quản lý rộng khắp cáclĩnh vực cùng các loại nguồn lực dồi dào của xã hội. Điều này tạo ra nguycơ nhà nước có thể vượt quá các phạm vi, giới hạn mà nhân dân giao cho vàsự lạm dụng quyền lực nằm ngay bên trong nhà nước chứ không phải từ bênngoài tác động vào.. Do tính chất đặc biệt của QLNN như vậy, nên ngay từ khi ra đời chotới nay, vấn đề kiểm soát QLNN được đặt ra với những phương thức vàthiết chế khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nướcmắt của mình đã hiểu ra rằng: QLNN phải được kiểm soát, hơn thế nữa phảiđược kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, QLNN phải có giới hạn và phải bịgiới hạn, nhất là trong chế độ dân chủ và pháp quyền, đặc biệt là trong chếđộ dân chủ và pháp quyền XHCN. Kiểm soát QLNN đang là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trongxây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vìNhân dân ở Việt Nam. Nó là một yếu tố cấu thành khách quan của hoạtđộng thực thi QLNN - có quyền lực thì tất phải có kiểm soát quyền lực đểquyền lực không trở thành tuyệt đối. Tổ chức thực thi QLNN gồm ba giaiđoạn: Trao quyền - Sử dụng quyền - Kiểm soát quyền. Để QLNN luôn luôn làcủa Nhân dân, thuộc về Nhân dân thì tất yếu phải kiểm soát. Ở Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát QLNN là một vấn đề mới nêncòn rất nhiều hạn chế, cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tượng trao quyền màkiểm soát lỏng lẻo, không thường xuyên, hình thức, thậm chí không kiểmsoát… đã dẫn đến nhiều hậu quả như: Tham nhũng, tiêu cực phát sinh tràn lantrong bộ máy nhà nước; Trật tự xã hội có nhiều xáo trộn; Công lý, công bằng, 1dân chủ không được thực thi nghiêm túc… làm xói mòn lòng tin của nhândân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự phối hợpgiữa các nhánh quyền lực chưa được chặt chẽ, trong đó có sự phối hợpgiữa quyền hành pháp (QHP) và quyền tư pháp (QTP) trong kiểm soátQLNN. Đây là vấn đề cần tập trung nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễntrên cơ sở phương pháp luận khoa học với cách nhìn đổi mới. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cáchtoàn diện, chuyên biệt, đánh giá về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTPtrong kiểm soát QLNN ở cấp độ Luận án Tiến sỹ Quản lý công. Vì vậy, cóthể nói, đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diệnvề quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN trên cơ sởkế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả nhưng phát triển theo mộthướng nghiên cứu mới. Xuất phát từ các yêu cầu về lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Quanhệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soátquyền lực nhà nước ở Việt Nam” được tác giả lựa chọn với mong muốnnghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề đang đặt ra nhằm góp phần tăng cường kiểmsoát QLNN ở Việt Nam, bảo đảm QLNN là của Nhân dân. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xây dựng cơ sở khoa họcnhằm đề xuất các giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP vàQTP trong kiểm soá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN HỮU CHÍNH QUAN HỆ PHỐI HỢPGIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 9 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI, 2020 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Lê Thị Hương 2. PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn Phản biện 1: …………………………………………. Phản biện 2: …………………………………………. Phản biện 3: ………………………………………….Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học việnĐịa điểm: Phòng ….tầng…..nhà…… Học viện Hành chính Quốc giaSố: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - Hà NộiThời gian: Vào hồi........giờ.......ngày.......tháng.......năm....... MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền lực nhà nước (QLNN) vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêucực. Mặt tích cực đó là QLNN có sức mạnh bảo đảm hoạt động hướng đíchcủa xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ lợi ích của cộng đồngvà của mỗi cá nhân. Mặt tiêu cực là QLNN có khuynh hướng lộng quyền vàlạm quyền. Khuynh hướng đó là biểu hiện của sự tha hoá QLNN trong quátrình vận động và phát triển. Khi QLNN bị tha hóa thì đều dẫn đến nhữnghậu quả tai hại mà người phải gánh chịu chính là Nhân dân - chủ nhân đíchthực của QLNN. Theo sử gia Lord Acton (1834-1902): “Quyền lực có xuhướng hủ hóa, quyền lực tuyệt đối có xu hướng hủ hóa tuyệt đối”. Nhà nướclà chủ thể nắm giữ quyền lực to lớn nhất với phạm vi quản lý rộng khắp cáclĩnh vực cùng các loại nguồn lực dồi dào của xã hội. Điều này tạo ra nguycơ nhà nước có thể vượt quá các phạm vi, giới hạn mà nhân dân giao cho vàsự lạm dụng quyền lực nằm ngay bên trong nhà nước chứ không phải từ bênngoài tác động vào.. Do tính chất đặc biệt của QLNN như vậy, nên ngay từ khi ra đời chotới nay, vấn đề kiểm soát QLNN được đặt ra với những phương thức vàthiết chế khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch sử đầy máu và nướcmắt của mình đã hiểu ra rằng: QLNN phải được kiểm soát, hơn thế nữa phảiđược kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, QLNN phải có giới hạn và phải bịgiới hạn, nhất là trong chế độ dân chủ và pháp quyền, đặc biệt là trong chếđộ dân chủ và pháp quyền XHCN. Kiểm soát QLNN đang là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trongxây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vìNhân dân ở Việt Nam. Nó là một yếu tố cấu thành khách quan của hoạtđộng thực thi QLNN - có quyền lực thì tất phải có kiểm soát quyền lực đểquyền lực không trở thành tuyệt đối. Tổ chức thực thi QLNN gồm ba giaiđoạn: Trao quyền - Sử dụng quyền - Kiểm soát quyền. Để QLNN luôn luôn làcủa Nhân dân, thuộc về Nhân dân thì tất yếu phải kiểm soát. Ở Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát QLNN là một vấn đề mới nêncòn rất nhiều hạn chế, cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tượng trao quyền màkiểm soát lỏng lẻo, không thường xuyên, hình thức, thậm chí không kiểmsoát… đã dẫn đến nhiều hậu quả như: Tham nhũng, tiêu cực phát sinh tràn lantrong bộ máy nhà nước; Trật tự xã hội có nhiều xáo trộn; Công lý, công bằng, 1dân chủ không được thực thi nghiêm túc… làm xói mòn lòng tin của nhândân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự phối hợpgiữa các nhánh quyền lực chưa được chặt chẽ, trong đó có sự phối hợpgiữa quyền hành pháp (QHP) và quyền tư pháp (QTP) trong kiểm soátQLNN. Đây là vấn đề cần tập trung nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễntrên cơ sở phương pháp luận khoa học với cách nhìn đổi mới. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cáchtoàn diện, chuyên biệt, đánh giá về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTPtrong kiểm soát QLNN ở cấp độ Luận án Tiến sỹ Quản lý công. Vì vậy, cóthể nói, đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diệnvề quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN trên cơ sởkế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả nhưng phát triển theo mộthướng nghiên cứu mới. Xuất phát từ các yêu cầu về lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Quanhệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soátquyền lực nhà nước ở Việt Nam” được tác giả lựa chọn với mong muốnnghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề đang đặt ra nhằm góp phần tăng cường kiểmsoát QLNN ở Việt Nam, bảo đảm QLNN là của Nhân dân. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xây dựng cơ sở khoa họcnhằm đề xuất các giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP vàQTP trong kiểm soá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luận án Tiến sĩ Quản lý công Quyền hành pháp Việt Nam Quyền tư pháp Việt Nam Kiểm soát quyền lực nhà nướcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thú y trên địa bàn thành phố Hà Nội
25 trang 247 0 0 -
27 trang 210 0 0
-
27 trang 154 0 0
-
29 trang 148 0 0
-
27 trang 139 0 0
-
7 trang 130 0 0
-
8 trang 129 0 0
-
26 trang 128 0 0
-
27 trang 125 0 0
-
27 trang 124 0 0