Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quảnlígiáodục: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học theo mô hình PDCA
Số trang: 32
Loại file: doc
Dung lượng: 273.00 KB
Lượt xem: 56
Lượt tải: 1
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận án là nghiên cứu lý luận về quản lý trong giáo dục, quản lý NCKH ở trường ĐH, tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý NCKH. Từ đó, đề xuất áp dụng mô hình PDCA trong quản lý NCKH các trường ĐH và các biện pháp triển khai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lí giáo dục: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học theo mô hình PDCA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC HUỲNH NGỌC THÀNH QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CƯU KHOA H ́ ỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THEO MÔ HÌNH PDCA Chuyên ngành: Quản lí giáo dục Mã số:9.14.01.14 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Hà Nội – 2021 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Quang Giao 2. GS.TSKH. Bùi Văn Ga Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hữu Điển Phản biện 2: Phản biện 3: TS. Nguyễn Chí Thành Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ họp tại: Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội Vào hồi 10 giờ 30, ngày 20 tháng 01 năm 2021 Có thể tìm hiểu luận văn tại: – Thư viện Quốc gia Việt Nam – Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, khoa học công nghệ (KHCN) không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, mà còn là điều kiện của sự phát triển kinh tế, là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Thực chất của cuộc chạy đua về kinh tế chính là cuộc chạy đua về KHCN mà cốt lõi là trí tuệ con người. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm phát triển KHCN, coi đầu tư giáo dục và đào tạo, phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. Vai trò quan trọng của KHCN và giao duc – đao tao luôn đ ́ ̣ ̀ ̣ ược xác định trong các văn kiện của Đảng, trong đó “Phát triển KHCN cùng với GDĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đóng góp vào sự phát triển nền KHCN của nước nhà không thể không kể đến vai trò của các trường đại học (ĐH). Nghị quyết Trung ương II khóa VIII của Đảng về KHCN chỉ rõ “Các trường ĐH phải là trung tâm NCKH, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống” và “... tiếp tục sắp xếp mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng và các viện nghiên cứu để gắn đào tạo với NCKH… coi trọng hơn nữa công tác NCKH, nhằm đáp ứng những vấn đề về lý luận và thực tiễn giáo dục…”. Nghiên cứu khoa học (NCKH) có vai trò quan trọng đối với cuộc sống, đối với sự phát triển kinh tế, sự thịnh vượng của mỗi quốc gia và sự phát triển của văn minh nhân loại. Trong những năm gần đây, hoạt động NCKH đã thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, có tác động toàn diện và sâu sắc đến sự phát triển của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. Vì vậy, “phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, để phát triển đất nước nhanh và bền vững”. [19, tr.1]. Ở các trường ĐH, NCKH là một trong hai nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Trong bối cảnh nền giáo dục của đất nước “đang đổi mới và hội nhập quốc tế” [24, tr.1], hoạt động NCKH của các trường ĐH nói chung và các ĐH vùng nói riêng phải tạo 1 ra động lực phát triển, hướng đến việc đáp ứng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường ĐH và được các tổ chức kiểm định chất lượng quốc gia, quốc tế công nhận cũng như các yêu cầu của các tiêu chí xếp hạng trường ĐH của quốc tế. Tuy nhiên, “nhìn chung chất lượng NCKH của các trường đai hoc th ̣ ̣ ấp, hiệu quả và hiệu suất thấp, ít tính mới và có ít tính sáng tạo, ít có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục đại học” [33, tr.209], “số lượng bài báo đăng trên tạp chí khoa học quốc tế của Việt Nam quá thấp so với các nước trong khu vực” [33, tr.210]. Theo kết quả đánh giá và công nhận 80 trường đại học của Việt Nam (số liệu tính đến ngày 31/3/2017) đạt chất lượng theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường ĐH do Bộ Giao duc & Đao tao ban ́ ̣ ̀ ̣ hành, đã thể hiện hoạt động NCKH của đa số các trường ĐH chưa đạt chất lượng với 126 tiêu chí thuộc tiêu chuẩn “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ” chưa đạt chất lượng trong tổng số 767 tiêu chí đánh giá chưa đạt chất lượng, chiếm tỷ lệ 16,4%. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa giáo dục đại học (GDĐH), khả năng sáng tạo tri thức mới của các trường ĐH được thể hiện thông qua kết quả NCKH được công bố trên các tạp chí quốc tế và chỉ số trích dẫn công trình đã được công bố. Chỉ số công bố kết quả NCKH trên các tạp chí quốc tế của các trường ĐH ở Việt Nam nói chung còn thấp. Do vậy, kết quả xếp hạng của các trường ĐH còn khiêm tốn so với các trường ĐH khác trong khu vực và trên thế giới. Theo kết quả xếp hạng năm 2018 của Webometrics (Bảng xếp hạng học thuật cho các trường dựa trên dung lượng thông tin cung cấp trên website của trường và mức độ ảnh hưởng của website đối với các đối tác ́ ương ĐH cua Viêt Nam xêp hang bên ngoài), cac tr ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ở vi tri kha khiêm tôn so v ̣ ́ ́ ́ ơi khu v ́ ực. Tư ̀ thang 01 năm 2017, m ́ ột trong 04 tiêu chí xếp hạng của Webometrics là số lượng trích dẫn các công trình khoa học trên nguồn dữ liệu G ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lí giáo dục: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học theo mô hình PDCA ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC HUỲNH NGỌC THÀNH QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CƯU KHOA H ́ ỌC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THEO MÔ HÌNH PDCA Chuyên ngành: Quản lí giáo dục Mã số:9.14.01.14 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Hà Nội – 2021 CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Quang Giao 2. GS.TSKH. Bùi Văn Ga Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hữu Điển Phản biện 2: Phản biện 3: TS. Nguyễn Chí Thành Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ họp tại: Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội Vào hồi 10 giờ 30, ngày 20 tháng 01 năm 2021 Có thể tìm hiểu luận văn tại: – Thư viện Quốc gia Việt Nam – Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, khoa học công nghệ (KHCN) không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, mà còn là điều kiện của sự phát triển kinh tế, là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Thực chất của cuộc chạy đua về kinh tế chính là cuộc chạy đua về KHCN mà cốt lõi là trí tuệ con người. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm phát triển KHCN, coi đầu tư giáo dục và đào tạo, phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. Vai trò quan trọng của KHCN và giao duc – đao tao luôn đ ́ ̣ ̀ ̣ ược xác định trong các văn kiện của Đảng, trong đó “Phát triển KHCN cùng với GDĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đóng góp vào sự phát triển nền KHCN của nước nhà không thể không kể đến vai trò của các trường đại học (ĐH). Nghị quyết Trung ương II khóa VIII của Đảng về KHCN chỉ rõ “Các trường ĐH phải là trung tâm NCKH, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống” và “... tiếp tục sắp xếp mạng lưới các trường ĐH, cao đẳng và các viện nghiên cứu để gắn đào tạo với NCKH… coi trọng hơn nữa công tác NCKH, nhằm đáp ứng những vấn đề về lý luận và thực tiễn giáo dục…”. Nghiên cứu khoa học (NCKH) có vai trò quan trọng đối với cuộc sống, đối với sự phát triển kinh tế, sự thịnh vượng của mỗi quốc gia và sự phát triển của văn minh nhân loại. Trong những năm gần đây, hoạt động NCKH đã thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, có tác động toàn diện và sâu sắc đến sự phát triển của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia. Vì vậy, “phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, để phát triển đất nước nhanh và bền vững”. [19, tr.1]. Ở các trường ĐH, NCKH là một trong hai nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Trong bối cảnh nền giáo dục của đất nước “đang đổi mới và hội nhập quốc tế” [24, tr.1], hoạt động NCKH của các trường ĐH nói chung và các ĐH vùng nói riêng phải tạo 1 ra động lực phát triển, hướng đến việc đáp ứng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường ĐH và được các tổ chức kiểm định chất lượng quốc gia, quốc tế công nhận cũng như các yêu cầu của các tiêu chí xếp hạng trường ĐH của quốc tế. Tuy nhiên, “nhìn chung chất lượng NCKH của các trường đai hoc th ̣ ̣ ấp, hiệu quả và hiệu suất thấp, ít tính mới và có ít tính sáng tạo, ít có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục đại học” [33, tr.209], “số lượng bài báo đăng trên tạp chí khoa học quốc tế của Việt Nam quá thấp so với các nước trong khu vực” [33, tr.210]. Theo kết quả đánh giá và công nhận 80 trường đại học của Việt Nam (số liệu tính đến ngày 31/3/2017) đạt chất lượng theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường ĐH do Bộ Giao duc & Đao tao ban ́ ̣ ̀ ̣ hành, đã thể hiện hoạt động NCKH của đa số các trường ĐH chưa đạt chất lượng với 126 tiêu chí thuộc tiêu chuẩn “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ” chưa đạt chất lượng trong tổng số 767 tiêu chí đánh giá chưa đạt chất lượng, chiếm tỷ lệ 16,4%. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa giáo dục đại học (GDĐH), khả năng sáng tạo tri thức mới của các trường ĐH được thể hiện thông qua kết quả NCKH được công bố trên các tạp chí quốc tế và chỉ số trích dẫn công trình đã được công bố. Chỉ số công bố kết quả NCKH trên các tạp chí quốc tế của các trường ĐH ở Việt Nam nói chung còn thấp. Do vậy, kết quả xếp hạng của các trường ĐH còn khiêm tốn so với các trường ĐH khác trong khu vực và trên thế giới. Theo kết quả xếp hạng năm 2018 của Webometrics (Bảng xếp hạng học thuật cho các trường dựa trên dung lượng thông tin cung cấp trên website của trường và mức độ ảnh hưởng của website đối với các đối tác ́ ương ĐH cua Viêt Nam xêp hang bên ngoài), cac tr ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ở vi tri kha khiêm tôn so v ̣ ́ ́ ́ ơi khu v ́ ực. Tư ̀ thang 01 năm 2017, m ́ ột trong 04 tiêu chí xếp hạng của Webometrics là số lượng trích dẫn các công trình khoa học trên nguồn dữ liệu G ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Luận án Tiến sĩ Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quảnlígiáodục Luận án Tiến sĩ Quảnlígiáodục Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học Mô hình PDCATài liệu liên quan:
-
205 trang 433 0 0
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 387 1 0 -
174 trang 343 0 0
-
206 trang 309 2 0
-
228 trang 273 0 0
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thú y trên địa bàn thành phố Hà Nội
25 trang 251 0 0 -
32 trang 233 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 231 0 0 -
208 trang 221 0 0
-
27 trang 214 0 0