Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Phương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá các di sản văn hóa phi vật thể âm nhạc của đài tiếng nói Việt Nam
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 207.98 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luận văn “Phương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá các di sản văn hoá phi vật thể âm nhạc của Đài tiếng nói Việt Nam (TNVN)” sẽ phân tích, đánh giá các phương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá di sản văn hoá phi vật thể âm nhạc dân tộc, còn gọi là âm nhạc dân gian hay dân ca và nhạc cổ truyền của Việt Nam tại Đài TNVN. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Phương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá các di sản văn hóa phi vật thể âm nhạc của đài tiếng nói Việt NamPhương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá cácdi sản văn hóa phi vật thể âm nhạc của đài tiếngnói Việt NamNguyễn Quang VinhTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănLuận văn Thạc sĩ ngành: Báo chí học; Mã số: 60 32 01 01Người hướng dẫn: TS. Trần Bá DungNăm bảo vệ: 2014Keywords. Báo chí học; Di sản văn hóa; Đài tiếng nói Việt Nam; Phương tiện truyềnthôngContent1. Lý do chọn đề tàiTừ bao đời nay, các di sản văn hoá phi vật thể âm nhạc của Việt Nam luôn là món ăn tinhthần không thể thiếu được trong đời sống của người dân. Nó luôn gắn bó với cuộc đời của conngười từ lúc lọt lòng mẹ đến khi từ giã cõi đời. Tuổi ấu thơ, chúng ta đã được nuôi dưỡng bởinhững lời ru ngọt ngào, trìu mến, đầy tình yêu thương của bà, mẹ, cha và chị, được hát nhữngđiệu hát đồng dao vui vẻ. Lớn lên, chúng ta tham gia các cuộc hát giao duyên để tìm bạn đờitrong các ngày lễ hội đình làng ở địa phương, hát ghẹo, hát ví v.v… Đến khi từ giã cõi đời, linhhồn chúng ta lại được âm nhạc tang ma đưa về với tổ tiên. Không chỉ gắn bó với cuộc đời củamỗi con người, âm nhạc dân gian còn có tính thực hành xã hội cao. Đó là những điệu hò laođộng khoẻ mạnh, các điệu hát chèo thuyền rộn ràng, mạnh mẽ; các làn điệu ví phường cấy,phường vải ngân nga, ngọt ngào; các làn điệu hát ru à ơi, êm ái đưa trẻ nhỏ vào giấc ngủ ngonlành; các điệu hô bài chòi gắn với chò trơi tổ tôm đầu xuân; những bài hát có nội dung gắn vớicông việc buôn bán; những bài dân ca có nội dung về nông nghiệp v.v… Ngoài ra, chúng ta cònthấy rất nhiều loại hình âm nhạc gắn với tín ngưỡng như: hát chầu văn gắn với tín ngưỡng tứphủ, âm nhạc Phật giáo phục vụ các nghi lễ của đạo Phật, hát then gắn với tín ngưỡng thờ Giàng(trời) của người Tày, Nùng, Thái cũng như các loại hình sân khấu đặc trưng của ba miền như:sân khấu chèo ở miền Bắc, sân khấu tuồng ở miền Trung và sân khấu cải lương ở Nam Bộ.Trong quá trình phát triển, đã có thời kỳ, nhiều di sản văn hoá phi vật thể của Việt Namphải đứng trước nguy cơ bị mai một do định kiến của xã hội. Đó là vào những thập kỷ 60, 70, 80của thế kỷ 20, khi ca trù bị coi là nghệ thuật suy đồi do những suy nghĩ sai lạc gắn với hát cô đầutrong thời kỳ Pháp thuộc, nghệ thuật tuồng thì bị gắn với chủ nghĩa phong kiến, hát chầu văn thìbị coi là mê tín di đoan và cấm trình diễn trong thời gian dài v.v... Nhiều năm qua, thực hiệnNghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TƯ5 khoá 8 của Đảng về văn hoá “Xây dựng nền văn hoáViệt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và “Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo” năm 2004, cókhông ít loại hình dân ca và nhạc cổ truyền Việt Nam đã được phục hồi, bảo tồn và phát huy,trong đó, một số loại hình đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi vật thể của nhânloại như: Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên và Nhã nhạc cung đình Việt Nam, 2 kiệttác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại; Dân ca Quan họ Bắc Ninh, nghệ thuật Đờn ca Tài tửNam Bộ, 2 di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại; hát Xoan Phú thọ và hát Ca trù, 2 disản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.Trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và mạnginternet đã kết nối Việt Nam với thế giới, cuộc sống vật chất của người dân ngày càng được cảithiện, đời sống văn hoá nghệ thuật trở nên phong phú hơn, có nhiều sự lựa chọn hơn do sự dunhập của nhiều loại hình nghệ thuật nước ngoài vào Việt nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhậpquốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc bảo tồn, phát huy và truyền bá di sản văn hoá phivật thể âm nhạc của Việt Nam. Thách thức đầu tiên là việc giới trẻ ít chú ý đến âm nhạc dân tộcViệt Nam mà quan tâm nhiều đến các giá trị âm nhạc của nước ngoài như: phong trào K-pop,nhạc Trung quốc, nhạc Nhật bản; nhạc pop, rock, hiphop, jazz của Mỹ, Châu âu v.v… Tháchthức thứ hai là sự thay đổi của xã hội. Khoa học kỹ thuật phát triển, thuyền chạy máy ra đời đãthay thế các thuyền chèo bằng tay. Do vậy, các bài hát chèo thuyền dường như đã mất tính thựchành xã hội, dần biến mất trên các chuyến đò dọc ngang trên sông; những làn điệu dân ca gắnvới công việc trồng lúa nước đã không còn tính thực hành xã hội nữa khi cộng đồng chuyển sangtrồng cây công nghiệp; thách thức thứ 3 là sự thay đổi từ tôn giáo bản địa sang đạo Tin lành (tôngiáo không tích hợp với giá trị văn hoá bản địa) ở một số điạ phương ở Tây Nguyên cũng làmmất đi di sản văn hoá phi vật thể; thách thức thứ 4 là các nghệ nhân dân gian đang nắm các di sảnvăn hoá phi vật thể nhiều người đã già yếu hoặc qua đời đã khiến cho di sản đứng trước nguy cơmai một v.v... Nói đến việc bảo tồn, phát huy và truyền bá các giá trị văn hoá phi vật thể âm nhạctrong đời sống cộng đồng, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của báo chítruyền thông trong đó có Đài TNVN trong công việc này. Đây là kênh thông tin chính, hiệu quảđể truyền bá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Phương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá các di sản văn hóa phi vật thể âm nhạc của đài tiếng nói Việt NamPhương thức bảo tồn, phát huy và truyền bá cácdi sản văn hóa phi vật thể âm nhạc của đài tiếngnói Việt NamNguyễn Quang VinhTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănLuận văn Thạc sĩ ngành: Báo chí học; Mã số: 60 32 01 01Người hướng dẫn: TS. Trần Bá DungNăm bảo vệ: 2014Keywords. Báo chí học; Di sản văn hóa; Đài tiếng nói Việt Nam; Phương tiện truyềnthôngContent1. Lý do chọn đề tàiTừ bao đời nay, các di sản văn hoá phi vật thể âm nhạc của Việt Nam luôn là món ăn tinhthần không thể thiếu được trong đời sống của người dân. Nó luôn gắn bó với cuộc đời của conngười từ lúc lọt lòng mẹ đến khi từ giã cõi đời. Tuổi ấu thơ, chúng ta đã được nuôi dưỡng bởinhững lời ru ngọt ngào, trìu mến, đầy tình yêu thương của bà, mẹ, cha và chị, được hát nhữngđiệu hát đồng dao vui vẻ. Lớn lên, chúng ta tham gia các cuộc hát giao duyên để tìm bạn đờitrong các ngày lễ hội đình làng ở địa phương, hát ghẹo, hát ví v.v… Đến khi từ giã cõi đời, linhhồn chúng ta lại được âm nhạc tang ma đưa về với tổ tiên. Không chỉ gắn bó với cuộc đời củamỗi con người, âm nhạc dân gian còn có tính thực hành xã hội cao. Đó là những điệu hò laođộng khoẻ mạnh, các điệu hát chèo thuyền rộn ràng, mạnh mẽ; các làn điệu ví phường cấy,phường vải ngân nga, ngọt ngào; các làn điệu hát ru à ơi, êm ái đưa trẻ nhỏ vào giấc ngủ ngonlành; các điệu hô bài chòi gắn với chò trơi tổ tôm đầu xuân; những bài hát có nội dung gắn vớicông việc buôn bán; những bài dân ca có nội dung về nông nghiệp v.v… Ngoài ra, chúng ta cònthấy rất nhiều loại hình âm nhạc gắn với tín ngưỡng như: hát chầu văn gắn với tín ngưỡng tứphủ, âm nhạc Phật giáo phục vụ các nghi lễ của đạo Phật, hát then gắn với tín ngưỡng thờ Giàng(trời) của người Tày, Nùng, Thái cũng như các loại hình sân khấu đặc trưng của ba miền như:sân khấu chèo ở miền Bắc, sân khấu tuồng ở miền Trung và sân khấu cải lương ở Nam Bộ.Trong quá trình phát triển, đã có thời kỳ, nhiều di sản văn hoá phi vật thể của Việt Namphải đứng trước nguy cơ bị mai một do định kiến của xã hội. Đó là vào những thập kỷ 60, 70, 80của thế kỷ 20, khi ca trù bị coi là nghệ thuật suy đồi do những suy nghĩ sai lạc gắn với hát cô đầutrong thời kỳ Pháp thuộc, nghệ thuật tuồng thì bị gắn với chủ nghĩa phong kiến, hát chầu văn thìbị coi là mê tín di đoan và cấm trình diễn trong thời gian dài v.v... Nhiều năm qua, thực hiệnNghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TƯ5 khoá 8 của Đảng về văn hoá “Xây dựng nền văn hoáViệt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và “Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo” năm 2004, cókhông ít loại hình dân ca và nhạc cổ truyền Việt Nam đã được phục hồi, bảo tồn và phát huy,trong đó, một số loại hình đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi vật thể của nhânloại như: Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên và Nhã nhạc cung đình Việt Nam, 2 kiệttác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại; Dân ca Quan họ Bắc Ninh, nghệ thuật Đờn ca Tài tửNam Bộ, 2 di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại; hát Xoan Phú thọ và hát Ca trù, 2 disản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.Trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và mạnginternet đã kết nối Việt Nam với thế giới, cuộc sống vật chất của người dân ngày càng được cảithiện, đời sống văn hoá nghệ thuật trở nên phong phú hơn, có nhiều sự lựa chọn hơn do sự dunhập của nhiều loại hình nghệ thuật nước ngoài vào Việt nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhậpquốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc bảo tồn, phát huy và truyền bá di sản văn hoá phivật thể âm nhạc của Việt Nam. Thách thức đầu tiên là việc giới trẻ ít chú ý đến âm nhạc dân tộcViệt Nam mà quan tâm nhiều đến các giá trị âm nhạc của nước ngoài như: phong trào K-pop,nhạc Trung quốc, nhạc Nhật bản; nhạc pop, rock, hiphop, jazz của Mỹ, Châu âu v.v… Tháchthức thứ hai là sự thay đổi của xã hội. Khoa học kỹ thuật phát triển, thuyền chạy máy ra đời đãthay thế các thuyền chèo bằng tay. Do vậy, các bài hát chèo thuyền dường như đã mất tính thựchành xã hội, dần biến mất trên các chuyến đò dọc ngang trên sông; những làn điệu dân ca gắnvới công việc trồng lúa nước đã không còn tính thực hành xã hội nữa khi cộng đồng chuyển sangtrồng cây công nghiệp; thách thức thứ 3 là sự thay đổi từ tôn giáo bản địa sang đạo Tin lành (tôngiáo không tích hợp với giá trị văn hoá bản địa) ở một số điạ phương ở Tây Nguyên cũng làmmất đi di sản văn hoá phi vật thể; thách thức thứ 4 là các nghệ nhân dân gian đang nắm các di sảnvăn hoá phi vật thể nhiều người đã già yếu hoặc qua đời đã khiến cho di sản đứng trước nguy cơmai một v.v... Nói đến việc bảo tồn, phát huy và truyền bá các giá trị văn hoá phi vật thể âm nhạctrong đời sống cộng đồng, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của báo chítruyền thông trong đó có Đài TNVN trong công việc này. Đây là kênh thông tin chính, hiệu quảđể truyền bá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phương thức bảo tồn Phương pháp phát huy Phương pháp truyền bá di sản Di sản văn hóa phi vật thể Di sản âm nhạc Đài tiếng nói Việt Nam Di sản văn hóa Phương tiện truyềnthôngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu lớp 10
85 trang 384 0 0 -
10 trang 96 0 0
-
Nghị quyết số 04/NQ-HĐND Thành Phố Hà Nội
16 trang 67 0 0 -
5 trang 66 2 0
-
9 trang 63 0 0
-
Văn hóa phi vật thể - linh hồn của di sản Tây Nguyên
3 trang 60 0 0 -
Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian
7 trang 55 0 0 -
3 trang 54 0 0
-
Luật tục Ê-đê về bảo vệ tài nguyên môi trường trong mối tương quan với pháp luật hiện nay
13 trang 54 0 0 -
Đánh giá sự hài lòng của du khách đối với sản phẩm du lịch ban đêm tại Hà Nội
6 trang 53 0 0