Danh mục

Tổng quan về lý thuyết quản lý Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 174.30 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các tư tưởng và trường phái quản lý Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Vai trò của nó đã được thể hiện một cách giản dị qua câu nói dân gian “Một người biết lo bằng cả kho người hay làm”.Về sau, Các Mác đã khẳng định: “Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung khi thực hiện trên một quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay ít đều...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổng quan về lý thuyết quản lý Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor Tổng quan về lý thuyết quản lý - Thuyết quản lý khoa học của F.W.TaylorCác tư tưởng và trường phái quản lý Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khicon người biết lao động theo từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển vàphối hợp hành động. Vai trò của nó đã được thể hiện một cách giản dị quacâu nói dân gian “Một người biết lo bằng cả kho người hay làm”.Về sau, Các Mác đã khẳng định: “Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao độngchung khi thực hiện trên một quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay ít đều cầnđến quản lý”; và ông hình dung quản lý giống như công việc của người nhạctrưởng trong một dàn hợp xướng.Bắt đầu từ quản lý theo kinh nghiệm, đến thế kỷ XX (đặc biệt vào những năm 40)ở phương Tây mới nghiên cứu có hệ thống vấn đề quản lý với sự xuất hiện hàngloạt công trình, như một “rừng lý luận quản lý” rậm rạp. Những lý thuyết đó đượcđúc kết từ thực tiễn quản lý và thể hiện các tư tưởng triết học khác nhau, phát triểnqua từng giai đoạn lịch sử.Ở Trung Hoa thời cổ đại, tư tưởng đức trị của Khổng Tử với triết lý Đạo Nhân đãchi phối hoạt động quản lý, chủ yếu đối với việc quản lý xã hội, đất nước (“trịquốc, bình thiên hạ”) bởi lẽ nền kinh tế thời đó chỉ là tiểu nông, thủ công nghiệpvà buôn bán nhỏ. Cặp phạm trù Nhân - Lợi đã có ảnh hưởng nhất định đến quản lýqua tư tưởng nhân bản “làm cho dân giàu, nước mạnh”; được các đời sau kế thừavà phát triển. Đến thời Chiến quốc (280 - 233 trước CN), kinh tế khá phát triểnsong lại kém ổn định về chính trị - xã hội, Hàn Phi Tử đã chủ xướng tư tưởng pháptrị, coi trọng pháp chế nghiêm khắc và đề cao thuật dùng người. Đó là tư tưởngduy lý, duy lợi được tái hiện sau hơn 2000 năm ở phương Tây trong triết lý “conngười kinh tế”. Các thuyết quản lý sau này kết hợp cả hai tư tưởng triết học đó đểngày càng coi trọng hơn nhân tố văn hóa trong quản lý.Với sự phát triển thương mại (thế kỷ XVI) và cách mạng công nghiệp ở châu Âu(thế kỷ XVIII), hoạt động quản lý được tách ra thành một chức năng riêng nhưmột nghề chuyên nghiệp từ sự phân công lao động xã hội. Lý thuyết quản lý từngbước tách ra khỏi triết học để trở thành một khoa học độc lập - khoa học quản lý -từ đầu thế kỷ XX cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và sau đó là chủ nghĩaxã hội.Từ “rừng lý luận quản lý” đó, các lý thuyết quản lý lần lượt được quy nạp thànhcác trường phái quản lý với đặc trưng khác nhau. Sự phân loại đó thực ra chỉ có ýnghĩa tương đối; số lượng trường phái lúc đầu là 5, 6 và sau đó phát triển thành 11trường phái gồm:- Trường phái quản lý theo quá trình làm việc (chính thống, cổ điển)- Trường phái quan hệ giữa người và người (thông qua con người)- Trường phái hành vi quần thể (hành vi của tổ chức)- Trường phái kinh nghiệm (so sánh các phương án)- Trường phái hệ thống hiệp tác xã hội (quan hệ văn hóa các tổ chức)- Trường phái hệ thống kỹ thuật xã hội (sản xuất, văn phòng, con người)- Trường phái phương pháp hệ thống (quan hệ hữu cơ trong tổng thể)- Trường phái lý luận về quyết sách (chọn phương án khả thi)- Trường phái toán học (dùng quan hệ toán học để thể hiện quyết sách)- Trường phái lý luận quyền biến (quản lý theo hoàn cảnh quan hệ với đối sáchquản lý)- Trường phái vai trò giám đốc (qua hoạt động thực tiễn của người điều hành cáccấp).Mỗi trường phái về lý luận quản lý đều có cống hiến nhất định, cung cấp cho cácnhà quản lý những kiến giải và phương pháp hữu hiệu (với tư cách là công cụ,phương tiện thay vì là nội dung quản lý).Với cuộc cách mạng thông tin phôi thai từ đầu thế kỷ XX, thế giới bắt đầu bướcvào một xã hội “hậu công nghiệp” với các cách định danh chưa thống nhất. Từ đó,bắt đầu xuất hiện một số thuyết quản lý mới, đầu tiên là thuyết “tổng hợp và thíchnghi” do Peter Drucker (1909, người Anh) đề xướng qua tác phẩm nổi tiếng“Quản lý trong thời đại bão táp”. Tuy nhiên hãy còn quá sớm để định hình mộttrường phái quản lý “hậu hiện đại”.Việc phân loại các trường phái chủ yếu có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu vềlý luận quản lý. Điều đáng quan tâm hơn đối với các người làm quản lý thực tiễnlà nội dung cụ thể của từng thuyết quản lý, bất kể thuộc trường phái nào miễn làcó thể vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của môi trường quản lý hiện hữu.Trường phái cổ điển - Thuyết TaylorXuất hiện vào đầu thế kỷ XX, trường phái quản lý cổ điển - còn gọi là trường pháiphổ biến - gồm hai thuyết quản lý chính: thuyết quản lý theo khoa học (doF.W.Taylor là đại diện chủ yếu) và tiếp đó là thuyết quản lý tổng quát (do H.Fayolđề xướng). Trường phái cổ điển đã đặt nền móng đầu tiên cho khoa học quản lývới những đóng góp có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ hoạt động quản lý trongxã hội công nghiệp, mà những nội dung cơ bản của nó vẫn có giá trị cao cho đếnbây giờ.Frederick Winslow Taylor (1856 - 1916) xuất thân là một công nhân cơ khí ởMỹ ...

Tài liệu được xem nhiều: