Làng Sình nằm đối diện bên kia sông là Thanh Hà – một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở Ðàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh – một trung tâm buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Ðây còn là một trung tâm văn hoá: chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa. Không biết từ bao giờ, làng nghề in tranh dân gian phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng. Vị trí:...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tranh làng Sình xưa và nay
Tranh làng Sình xưa và nay
Làng Sình nằm đối diện bên kia sông là Thanh Hà – một cảng sông nổi tiếng thời các
chúa ở Ðàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh – một trung tâm
buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Ðây còn là một trung tâm văn hoá: chùa
Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa.
Không biết từ bao giờ, làng nghề in tranh dân gian phục vụ cho việc thờ cúng của người
dân khắp vùng.
Vị trí: Làng Sình thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế
Đặc điểm: Tranh Làng Sình chủ yếu phục vụ cho việc thờ cúng của người dân trong
vùng.
Thời Trịnh – Nguyễn, cùng đoàn người vào đất Thuật Hoá định cư, ông Kỳ Hữu Hoà
mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản, tranh làng Sình ra đời từ đó. Ông Hoà được coi
là ông tổ nghề tranh ở làng sình.
Làng Sình nằm đối diện bên kia sông là Thanh Hà – một cảng sông nổi tiếng thời các
chúa ở Ðàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh – một trung tâm
buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Ðây còn là một trung tâm văn hoá: chùa
Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa.
Không biết từ bao giờ, làng nghề in tranh dân gian phục vụ cho việc thờ cúng của người
dân khắp vùng.
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước với những bản mộc 150 năm tuổi
Hồn của bức tranh nằm ở cái vuốt tay này!
Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Có thể phân làm ba loại:
1- Tranh nhân vật chủ yếu là tranh tượng bà, vẽ một người phụ nữ xiêm y rực rỡ với hai
nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại: tượng đế, tượng chùa,
và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ quanh năm.
2- Lại còn các loại tranh khác gọi là con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ông đàn
bà, và ảnh phền vẽ bé trai bé gái (phải chăng phền do chữ phồn thực của Ðông Hồ). Các
loại nhân vật còn lại là tranh ông Ðiệu, ông Ðốc và Tờ bếp (có lẽ tranh vẽ Táo quân). Các
loại tranh này sẽ đốt sau khi cúng xong.
3- Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông, áo bà, áo
binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình… thường là tranh cỡ nhỏ. Tranh súc vật (gia súc,
ngoài ra còn có voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người chết.
Tranh làng Sình có thể sánh với các dòng tranh miền Bắc (như Ðông Hồ, Kim Hoàng,
Hàng Trống), một thời đã lưu hành khắp vùng Thuận Quảng. Sình là tên nôm của làng
Lại Ân, cách Huế chừng 7km về phía đông bắc. Sách Ô Châu cận lục ra đời hồi thế kỷ 16
đã nói đến Lại Ân như một địa danh trù phú.
Xóm Lại Ân canh gà xào xạc
Giục khách thương mua một bán mười…
Vào khoảng tháng năm, tháng sáu, khi trời nắng to nước cạn, từng nhóm 57 chàng trai
dong thuyền dọc theo đầm phá Tam Giang, đến Cầu Hai, Hà Trung, Lăng Cô để cào điệp,
một loại trai sò có vỏ mỏng và phẳng. Có loại điệp chết đã lâu ngày vỏ lắng dưới bùn gọi
là “điệp bùn”, khi nhặt chỉ còn là những mảnh màu trắng, mỏng, mềm dễ sử dụng hơn.
Loại điệp mới chết gọi là “điệp bầy” nổi trên bùn, có vỏ cứng lẫn nhiều màu đen. Ðiệp
đem về loại hết tạp chất, chỉ còn lại lớp vỏ trắng bên trong, được đem giã nhỏ. Mỗi cối
giã có từ 26 người thay nhau giã, gần như suốt đêm tới sáng. Những câu hò giã điệp cũng
vang lên như lúc giã gạo. Bột điệp lấp lánh trộn với bột nếp khuấy thành hồ, phết lên giấy
sẽ cho ra một thứ giấy trắng lấp lánh ánh bạc. Bàn chải quét điệp làm bằng lá thông khô
bó lại, gọi là cái “thét”. Khi chiếc thét quét qua mặt giấy sẽ để lại những vệt trắng song
song lấp lánh.
Ðể kiếm các loại cây cỏ pha chế màu có khi họ phải lên tận rừng già phía tây Thừa Thiên
– Huế. Hai thứ cây chỉ có ở đây là cây trâm, phải chặt từng đoạn mang về, sau đó mới
chẻ nhỏ để nấu màu; còn cây đung thì hái lá và bẻ cành. Lá đung giã với búp hòe non sẽ
cho màu vàng nhẹ. Các màu khác cũng được làm từ cây cỏ trong vườn như hạt mồng tơi
cho màu xanh dương, hạt hòe cho màu vàng đỏ, muốn có màu đỏ sẫm thì lấy nước lá
bàng. Ngoài ra người làng Sình còn dùng đá son để lấy màu đỏ, bột gạch để có màu đơn.
Màu đen được dùng nhiều nhất, lại là màu dễ làm nhất. Người ta lấy rơm gạo nếp đốt
cháy thành tro, sau đó hòa tan trong nước rồi lọc sạch để lấy một thứ nước đen, đem cô
lại thành một thứ mực đen bóng. Những màu chủ yếu trên tranh làng Sình là các màu
xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗi màu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng,
khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu bằng da trâu tươi.
Tranh Sình có kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó thông dụng. Giấy dó cổ truyền có
khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi (25×35), pha ba (25×23) hay pha tư (25×17). In
tranh khổ lớn thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ
dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng
miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập
xuống dưới rồi lấy ván in dập lên.
Bản in đen chờ cho khô thì đem tô màu. Tuy ...