Tranh Sình, về cơ bản là dòng tranh thờ cúng dân gian. Khác với dòng tranh Đông Hồ có chủ đề quán xuyến hầu hết mọi mặt của đời sống và tinh thần của cư dân vùng châu thổ Bắc bộ với lối biểu đạt trào lộng và dí dỏm, tranh Sình dường như chỉ tập trung vào hai công năng: thờ và cúng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tranh Sình
Tranh Sình
Tranh Sình, về cơ bản là dòng tranh thờ cúng dân gian. Khác với dòng tranh Đông
Hồ có chủ đề quán xuyến hầu hết mọi mặt của đời sống và tinh thần của cư dân
vùng châu thổ Bắc bộ với lối biểu đạt trào lộng và dí dỏm, tranh Sình dường như
chỉ tập trung vào hai công năng: thờ và cúng...
Xiêm, hình đàn ông Xiêm, hình đàn ông Xiêm, hình đàn bà
(tranh Sình ngày trước) (tranh Sình hiện đại) (tranh Sình ngày trước)
Cạnh ngã ba Sình, điểm hợp lưu giữa sông Bồ với sông Hương, có một làng chuyên nghề
in tranh mộc bản, tạo nên một dòng tranh nổi tiếng ở đất Huế suốt mấy trăm năm nay:
tranh Sình. Làng Sình, tên chữ là làng Lại Ân, nay thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế, là một trong những làng hình thành khá sớm của xứ Thuận Hóa.
Tác phẩm Ô châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc vào thế kỷ XVI đã nhiều lần đề
cập địa danh Lại Ân như là một làng quê trù phú, hưng thịnh về giao thương: “Xóm Lại
Ân canh gà xao xác- giục khách thương mua một bán mười” hay “Bát đĩa sứ ở Thế Lại,
Lại Ân giá bán rất đắt”,… Ngày nay, làng Sình được biết đến như một làng văn vật của
đất cố đô, nơi còn lưu giữ nghề làm tranh cổ truyền và một hội vật nổi tiếng, tổ chức vào
ngày mồng mười tháng giêng âm lịch hàng năm: “Dù ai đi đó đi đây- Đến ngày Hội vật
nhớ quay về Sình”.
Xiêm, hình đàn bà Phền, hình bé gái Phền, hình bé gái
(tranh Sình hiện đại) (tranh Sình ngày trước) (tranh Sình hiện đại)
Tranh Sình, về cơ bản là dòng tranh thờ cúng dân gian. Khác với dòng tranh Đông Hồ có
chủ đề quán xuyến hầu hết mọi mặt của đời sống và tinh thần của cư dân vùng châu thổ
Bắc bộ với lối biểu đạt trào lộng và dí dỏm, tranh Sình dường như chỉ tập trung vào hai
công năng: thờ và cúng, nghĩa là chỉ chuyên phụng sự đời sống tâm linh của người dân
vùng Huế mà thôi.
Tranh thờ là những bức tranh nhân vật (1) được cung thỉnh trên các trang ông, trang bà,
trang bếp,… trong nhà người dân xứ Huế với tư cách là những vị thần bổn mạng, bảo trợ
cho gia chủ. Đó còn là những bức tranh đồ vật (khí dụng, cung tên,…) hay súc vật (trâu,
bò, heo, ngựa,…) được thờ phụng ở những nơi xác định (miếu tổ nghề, chuồng gia
súc,…), trong một khoảng thời gian nhất định (lâu nhất là một năm) để cầu mong cho
nghề nghiệp được phát triển, hưng vượng; hay cầu cho vật nuôi hay ăn chóng lớn, tránh
được tai ương dịch bệnh.
Tranh cúng thủy phủ Tượng bà Thủy (Mẫu Thoải) Áo ông
(tranh Sình hiện đại) (tranh Sình hiện đại) (tranh Sình hiện đại)
Tranh cúng là những bức tranh thế mạng cho người sống; các thứ áo ông, áo bà, áo binh;
các loại giấy tiền, giấy vàng bạc,… là những vật phẩm dâng cúng trong các cuộc tế lễ,
cầu đảo (2) và sẽ được đốt (hóa vàng) ngay sau khi cúng tế.
Cũng vì cái “công dụng nhất thời” này nên trong quá trình sáng tạo dòng tranh này, đặc
biệt là tranh cúng, các nghệ nhân làng Sình đã không quan tâm đúng mực đến tính thẩm
mỹ và sự tinh tế như các đồng nghiệp của dòng tranh Đông Hồ ở Bắc Ninh.
Đấu vật (tranh Sình ngày trước)
Về chủ đề, có thể chia tranh Sình thành ba nhóm chính:
- Tranh nhân vật: Gồm các loại tượng Bà, tượng Bếp; con ảnh; ông Điệu, ông Đốc;…
Tượng Bà là những bức tranh thờ trên những chiếc trang bà treo trên xà nhà, gọi là trang
bổn mạng. Bà sẽ là người giúp đỡ và giải hạn cho nữ gia chủ (3). Bà bổn mạng trên tranh
Sình thường được thể hiện trong hình tướng của một nữ nhân cưỡi trên lưng voi, ở trong
một khung hình chữ nhật (tượng trưng cho ngôi chùa với hai câu đối chữ Hán ở hai bên
và bức liên ba ở trên đầu), phía sau có hai thị nữ cầm quạt đứng hầu (tượng chùa); hoặc
chỉ cưỡi voi và có thị nữ hầu cận (tượng ngang), hoặc ngồi trên một đài cao (tượng đế).
Tượng Bếp (cũng gọi là tờ Bếp) là những bức tranh in hình ba người ngồi trên trang bếp
là bà Thổ Kỳ (ở giữa) và hai ông Thổ Công và Thổ Địa (ở hai bên); xung quanh là hình
các khí dụng, vật phẩm, kẻ hầu người hạ. Con ảnh là những “tờ thế mạng”, gồm ảnh xiêm
in hình người đàn ông hoặc đàn bà để cầu đảo để thế mạng cho người lớn, và ảnh phền in
hình bé trai hoặc bé gái để thế mạng cho trẻ em. Ngoài ra còn có các bộ tranh thờ thần để
cầu an cho người như tiên sư, ông Điệu, ông Đốc, bà Thủy, tam vị Phạm tinh,…
- Tranh súc vật: Đây là những bức tranh in hình 12 con vật cầm tinh cho thập nhị địa chi
trong âm lịch gồm: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi (chuột, trâu,
cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo); tranh in hình các loài gia súc trâu, bò,
heo, ngựa,… dùng để cúng tế hoặc treo trong các chuồng trại nuôi gia súc để cầu cho vật
nuôi tránh được dịch bệnh, phát triển đầy đàn; tranh có hình các linh thú như voi, cọp để
dâng cúng nơi các miếu nhằm tỏ lòng thành kính của con người với các loài mãnh thú và
cầu mong các mãnh thú này không giáng họa cho người.
- Tranh đồ vật: Là những bức tranh in hình các loại áo quần; khí dụng; cung tên;… hoặc
các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí.
Về kỹ thuật và chất liệu, tranh Sình là dòng tranh mộc bản in trên giấy dó. Quy trình làm
tranh Sình trải qua nhiều công đoạn: cào điệp, giã điệp, hồ điệp, pha giấy, bồi điệp, phơi
giấy, tạo màu, khắc ván, in tranh, tô màu,… Quy trình này là tập hợp các chuỗi công việc
diễn ra trên một địa bàn trải rộng từ núi rừng đến đồng bằng ra vùng duyên hải, với
những đóng góp của công sức, trí tuệ và sự khéo léo của ba nhóm nhân lực khác nhau:
- Nhóm thứ nhất chuyên nghề cào điệp, vớt điệp từ vùng đầm phá nước lợ ở ven biển.
Điệp là loài nhuyễn thể có vỏ, thuộc họ trai sò, sống ở vùng đầm phá Tam Giang- Cầu
Hai, trải dọc theo bờ biển Thừa Thiên Huế. Những trai đinh làng Sình đi cào vớt vỏ của
những con điệp đã chết, chất lên đò, chở về làng Sình để người ở nhà giã thành bột điệp.
Ván khắc tranh Sình ngày trước hiện đang trưng bày tại bảo tàng MTCĐ Huế
Ván khắc tranh thờ do phân viện VHTT thành phố Huế phát hiện trong một n ...