Danh mục

Trí thức Nho giáo với việc nho giáo hóa xã hội

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 238.91 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 18,000 VND Tải xuống file đầy đủ (23 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trí thức Nho giáo với việc nho giáo hóa xã hội Trí thức Nho giáo với việc nho giáo hóa xã hội Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, trí thức Nho giáo luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Đây có thể xem là một nét riêng của trí thức Nho giáo Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Á cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Bài tham luận này dựa trên những tài liệu do các nhà Nho tham gia biên soạn, chỉnh lý đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ cách tiếp cận liên ngành tư liệu học và foklore, để điểm lại những cố gắng của trí thức Nho giáo trong quá trình Nho giáo hóa xã hội. Phổ biến truyền bá biên dịch kinh điển Nho giáo: Trong quá khứ đội ngũ các nhà trí thức đều đọc được chữ Hán Nôm. Các hình thức dịch Nôm như diễn âm, giải âm, diễn ca, diễn nghĩa các tác phẩm chữ Hán cũng chỉ nhằm chủ yếu cho 2 đối tượng là người còn đang đi học (học các tác phẩm kinh điển qua bản diễn Nôm) và tầng lớp bình dân (diễn Nôm các tích truyện, hoặc kinh Phật, diễn ca các bài thuốc). Kinh điển Nho gia cũng đã từng được chú ý dịch sang chữ Nôm - tiếng Việt. Hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 25 tên tài liệu là bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm), dịch Nôm hầu hết Tứ thư, Ngũ kinh trong đó chủ yếu là Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Trung Dung(1). Riêng việc dịch Nôm Kinh Thi đã thấy có hai khuynh hướng là Thi học và Kinh học. Xu hướng Thi học đã tước bỏ những chú giải của Tống Nho, để trả lại vẻ đẹp ban đầu của Kinh Thi. “Các bản dịch Nôm khá đa dạng về thể loại (văn xuôi, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đan xen không đều đặn giữa song thất với lục bát), và cũng đa dạng về hướng tiếp nhận, đan xen cả việc tiếp nhận theo hướng kinh học và văn học, trong đó các bản dịch xuôi có thiên hướng tiếp nhận kinh học hơn, còn với các bản dịch thơ, đặc trưng thể loại đã giúp cho dịch giả phần nào thoát khỏi sự chi phối của yêu cầu “kinh học hóa” để chuyển hướng dần sang cách tiếp nhận Kinh Thi với tư cách một tác phẩm văn học” (2). Việc phổ biến và truyền bá kinh điển Nho gia đến với xã hội còn được thể hiện ở những lời dẫn dụng Nho điển trong khi các nhà Nho soạn văn bia, câu đối, hoành phi cho các địa phương. Các sưu tập hoành phi, câu đối và văn bia mà chúng ta đã sưu tầm được đầy rẫy những chữ nghĩa rút ra từ kinh điển Nho gia. Đáng tiếc là cho đến hiện nay, chưa có khảo sát nào về vấn đề này, để từ đó có thể rút ra những kết luận bổ ích về sự xâm nhập của Nho điển trong làng xã cổ truyền Việt Nam. Tham gia vào tín ngưỡng dân gian Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng làng xã. Con đường vào đời của họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút nghiên, trải qua các kỳ thi, và “tiến vi quan, thoái vi s ư”. Nếu đỗ đạt, họ ra l àm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở lại chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành thầy đồ dạy học, thầy lang bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự tích ở địa phương. Kết quả là cho đến nay, sưu tập về thần tích, sự tích, huyền tích dân gian, tín ngưỡng dân gian có thể coi là một sưu tập có trữ lượng rất lớn. Trong số đó sưu tập thần tích có quy mô nhất, ghi chép lai lịch, h ành trạng thần kỳ và công đức lớn lao của hàng nghìn vị thần linh, các vị thành hoàng được thờ ở khắp nơi, mang ký hiệu AE với 568 cuốn chép thần tích của các vị thần của 2821 làng xã (thôn, trang, ấp) thuộc 22 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Tiến hành nghiên cứu văn bản học mảng thư tịch này, có thể bóc tách các lớp văn hóa được lưu lại. Trường hợp thần tích Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử là những ví dụ(3). Đáng chú ý nhất l à chúng ta sẽ thấy được sự can thiệp của nhà Nho vào văn bản tín ngưỡng, cũng như áp đặt tư tưởng Nho giáo vào trong hệ thống bách thần; nói cách khác, người ta thấy được các thần linh được dân gian thờ cúng đã hiện lên như thế nào qua lăng kính nhà Nho(4). Ngoài thần tích trong kho AE, còn một sưu tập khác ghi lại các câu chuyện linh dị, các sự tích thần kỳ, thiêng liêng lưu truyền trong các làng quê Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường đưa các sưu tập này vào mục tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa), văn xuôi tự sự (Nguyễn Đăng Na), truyện truyền kỳ (Nguyễn Huệ Chi) (5). Các khảo cứu về văn bản học của Nguyễn Văn Hoài ( ...

Tài liệu được xem nhiều: