Trốc cước (chữ Hán: 戳腳; bính âm: chuō jiǎo; dịch nghĩa tiếng Anh: poking foot, có nghĩa là đâm chân hay thọc cước, chọt cước, phóng cước; âm Hán-Việt: trạc cước hay sác cước) và Phiên tử quyền là hai môn được danh tướng Nhạc Phi rất ưa thích và ông đã kết hợp với Ưng Trảo Quyền để sáng tác thành bộ môn quyền thuật nổi tiếng được đời sau gọi là Hình Ý quyền có các động tác mô phỏng từ các loài mãnh thú. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trốc cước Trốc cướcTrốc cước (chữ Hán: 戳腳; bính âm: chuō jiǎo; dịch nghĩa tiếng Anh: poking foot,có nghĩa là đâm chân hay thọc cước, chọt cước, phóng cước; âm Hán-Việt: trạccước hay sác cước) và Phiên tử quyền là hai môn được danh tướng Nhạc Phi rấtưa thích và ông đã kết hợp với Ưng Trảo Quyền để sáng tác thành bộ môn quyềnthuật nổi tiếng được đời sau gọi là Hình Ý quyền có các động tác mô phỏng từ cácloài mãnh thú.[sửa] Nguồn gốcCông phu chân vốn cần luyện tập dài lâu, nguồn gốc lịch sử có rất từ lâu đời,tương truyền bắt đầu từ thời nhà Tống (triều Bắc Tống) truyền đến danh tướngNhạc Phi thời nhà Nam Tống, thịnh hành thời nhà Minh và nhà Thanh.Trốc cước được qui công sáng tạo cho Đặng Lương (Deng Liang) là người đã soạnra một bộ gồm 18 thế cước pháp (thoái pháp) rồi sau đó căn theo phép toán tr ênbàn tính của Trung Hoa mà tạo ra thêm 108 chiêu thức thoái pháp.Theo truyền thuyết lưu truyền trong dân gian, sau đó Đặng Lương đã dạy mônquyền pháp này cho Châu Đồng (Jow Tung) mà sau này Châu Đồng chính là thầycủa danh tướng Nhạc Phi của nhà Nam Tống.Truyền thuyết dân gian Trung Quốc có truyện Võ Tòng uống rượu giả say đánhTưởng Môn Thần để báo ân của Thi Ân giải cứu trong nhà lao kể rằng Võ Tòng đãdùng Ngọc Hoàn bộ (vòng ngọc) và Uyên Ương cước trong trốc cước (trốc làđâm) vì vậy hiện nay vẫn có người gọi trốc cước là Thủy Hử Môn. Sự tích nàyđã được Thi Nại Am đưa vào tiểu thuyết anh hùng Thủy Hử nói về cuộc khởinghĩa của nông dân thời Bắc Tống do 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc khởixướng.Môn quyền này được phổ biến nhiều trong các cộng đồng người Hồi giáo ở miềnBắc Trung Hoa và miền Tây giáp vùng Tân Cương cũng là nơi các cộng đồngngười Hồi giáo tập trung lưu trú.Thời Thái Bình Thiên Quốc khoảng giữa cuối thế kỷ thứ 19, tướng quân của TháiBình là Triệu Xán ích (Zhao Canyi) rất giỏi trốc cước và Phiên Tử quyền. Sau khiquân Thái Bình đánh Thiên Tân thất bại, Triêu Xán ích về ở ẩn tại Nhiêu Dươngtỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) đã đem trốc cước và Phiên Tử quyền truyền dạy dânchúng vùng đó. Triệu Xán Ích dạy Phiên tử quyền cho gia tộc họ Vương và dạyTrốc cước cho gia tộc họ Doãn, sau đó hai dòng họ này đã trao đổi kỹ pháp chonhau và phổ biến ra khắp một vùng Hà Bắc.Trốc cước chia ra làm hai loại văn và võ. Loại võ chính là nguồn gốc của trốccước bao gồm các bài võ chiến đấu thực sự, loại văn phát triển từ đó biến hóa màra bao gồm các bài tập mang tính chất kinh viện trường lớp. Trường phái Trốccước Bắc Kinh không thuộc một trong hai loại này mà là sự kết hợp giữa Trốccước và Phiên tử quyền, đặc trưng của phái Trốc cước Bắc Kinh là các thế đánhngắn trong khi Trốc cước nguyên thủy chỉ dùng chân là chính chuyên đánh cự lyxa với vận tốc lớn.[sửa] Đặc trưng kỹ phápĐặc điểm kỹ thuật là: loại võ, thế thức thi triển không gò bó, mạnh mẽ nhanhnhẹn, phóng dài đánh xa, cương nhu cùng dùng, lấy cương làm chủ. Loại văn thếthức nhỏ khéo gấp gáp, động tác nhanh rõ, chiêu pháp chặt chẽ linh hoạt, đa biến,trong nhu có cương, trong bông giấu kim, có nghĩa là ngoài mềm mà trong là sắtthép, ngoài nhu trong cương (miên lý tàng kim).Khi diễn luyện, một bộ một chân, nhảy lên cao quyền cước liên hoàn phát đònđánh, trái phải thay nhau, trên dưới hợp đánh tấn công về phía trước cùng lúc nhưmưa rào, chân tay cùng dùng. Thế quyền liên tiếp tay liền tay, chân liền chân nhưchâu sa (châu ngọc rơi loảng xoảng) không cho đối phương một thời khắc nào cócơ hội phản công hồi kích. Các thế tấn di chuyển nhanh nhẹn thoải mái kết hợpcác cú đấm (phóng quyền) chính xác với các ngọn đá (đòn chân) khéo léo, lốiđánh ngắn, bất ngờ nhưng hiểm hóc.Phần bài tập huấn luyện thường yêu cầu người tập phải nhảy cao lên các bờ tườnghay bậc thang thềm nhà với những vật nặng được đeo vào bắp chân dưới.Vào thời nhà Thanh dưới triều vua Quang Tự (1871 - 1908) ở Thẩm Dương, mộthuyện lỵ của tỉnh Liêu Ninh có quyền sư Hồ Phong Tán (Hu Fengsan) rất giỏiTrốc cước sau khi tích hợp các bài bản và khổ công luyện tập. Sau một thời giandài khổ luyện, Hồ Phong Tán hiểu ra được nhiều yếu pháp quan trọng trong Trốccước và đã phát triển thành dòng Trốc cước Hồ Gia thuộc loại võ.Bài bản chủ yếu của loại võ có cửu chuyển liên hoàn uyên ương cước chín lộ(đường) gọi tắt là cửu chi tử thoái (chín phép đá) tức: lộ một uyên ương liênhoàn dậm đất; lộ hai uyên ương cất cánh; lộ ba uyên ương đón gió biến thức; lộbốn uyên ương mèo rừng vồ chuột (ly miêu phốc thử); lộ măn uyên ương rắn trắnglè nọc ( bạch xà thổ tín) ; lộ sáu uyên ương né tránh (thiểm thức); lộ 7 uyên ươngngược lưng bổ giã (phản bối phách tạp); lộ tám uyên ương liên hoàn bát quái (bátquái liên hoàn); lộ 9 uyên ương kiểu đi chín lần chuyển (cửu chuyển hành thức).Về loại văn có 12 liên quyền, 18 lan quyền (ngăn quyền), tiểu yến hành quyền(én nhỏ đi), quăng quyền (bắp tay trên), chuyển hành quyền (xoay vòng tròn),ngọc hoàn quyền (vòng ngọc), Vũ hầu quyền (Vũ hầu, tên, Gia Cát Vũ hầủ??), lụcmôn quyền (sáu cửa), , tam bát quyền (ba tám nhị bát thoái (28 đ òn chân), 16 thức,24 thức, 32 thức, loại bốn mềm (nhuyến thảng tử). Lại còn ... bài đơn 80 đòn chân,bài đơn 21 đòn tay nhanh v.v...Trốc cước phối hợp và pha trộn Phiên tử quyền có những chiêu thức chiến đấu kháđặc biệt như bài bản và phép đánh thực chiến luôn có những nhịp điệu (tiết tấu)công thủ cao thấp, thả mồi đuổi bắt, khi thẳng khi cong trên những đường quyềnchuyển động đa dạng. Những dạng quyền pháp Trốc cước sau này hoa dạng vàbiến tấu phong phú như Trốc cước Phiên tử quyền, Trốc cước Thiếu Lâm, Trốccước lẫy chân, Trốc cước tự do, Trốc cước Bát quái, ... tất cả các loại Trốc cướcnày đều có phong cách, tiết tấu, chiêu thức và các bài quyền riêng biệt.Trong các môn quyền thuật miền Bắc Trung Hoa, Trốc cước và Đàm Thoái là haimôn sử dụng đòn chân đá nhiều nhất. Nếu như các ngọn cước (đòn chân) của ĐàmThoái chỉ đá từ thắt lưng trở xuống thì các ngọn đá trong Trốc cước thường có thểphóng cao lên đến đầu của đối p ...