Tính cụ Trần Bảo vốn hào hoa, thích văn chương nghệ thuật, nói hay như tiếng hát, cười vui như tiếng suối reo. Bởi thế, hồi chàng Trần Bảo còn làm Lục sự Toà Thượng thẩm ở Huế, có lắm cô gái Huế nết na hiền thục, lại là nữ sinh trường Đồng Khánh duyên dáng nón bài thơ mê mẩn theo chàng vì tiếng cười, giọng hát, ngón đàn và cái tính phóng khoáng thương người. Có lẽ không ai dám chắc chàng giữđược đức độ của một “ông quan toà” (dù chàng chỉ là lục sự), nghĩa là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Truyện ngắn Thương nhớ con đèo Thương nhớ con đèoTính cụ Trần Bảo vốn hào hoa, thích văn chương nghệ thuật, nói hay như tiếng hát, cườivui như tiếng suối reo. Bởi thế, hồi chàng Trần Bảo còn làm Lục sự Toà Thượng thẩm ởHuế, có lắm cô gái Huế nết na hiền thục, lại là nữ sinh trường Đồng Khánh duyên dángnón bài thơ mê mẩn theo chàng vì tiếng cười, giọng hát, ngón đàn và cái tính phóngkhoáng thương người. Có lẽ không ai dám chắc chàng giữđược đức độ của một “ôngquan toà” (dù chàng chỉ là lục sự), nghĩa là “nhất phu nhất thê”. Nhưng điều kỳ lạ là suốthơn sáu mươi năm làm chồng, từ Chàng đến Cụ Trần Bảo, chẳng thấy có một dì hai dì banào lấp ló trong đời, bên cạnh bà vợ người Bình Định nổi tiếng thương chồng và cũng nổidanh dữ dằnvới ông chồng. Bà cụ - hồi còn trẻ dĩ nhiên là cô - dữ dằn với anh chồng - tứcông cụ về sau - cũng chỉ vì muốn giữ muốn giằng cho chắc chứ sao! Chắc chắn thế! Sáungười con của cụ cũng nghĩ thế. Lại cũng nghĩ thầm, cười tủm tỉm sau lưng mẹ mỗi khibà cụ nói xa nói gần để moi thông tin tình địch: “Dữ thế thì hoạ là gan trời mới dám códì hai!”. Nhưng riêng chị Đờn, người con cả của cụ lại nghĩ khác. Chị nghĩ:“Lạ thiệt!Hào hoa như rứa, tốt bụng như rứa, vì răng mà chẳng có dì mô theo?”. Cụ càng già cànghay đau ốm, chị lại càng hay săn sóc, hỏi han để cụ đỡ buồn cái nỗi có bảy đứa con màchỉ có mỗi thằng con trai đặt tên là Ca. Cụ thèm con trai đến mức khi đẻ đứa con gái thứsáu, cụ cũng đặt tên là Ca. Song vì làm lục sự toà án, cụ hiểu cái nỗi phiền phức trùng tênhọ sau này, nên viết tên con gái thứ sáu vào giấy khai sinh khác với ông anh một chút,thành ra Ka. Sau khi sinh cô Hò, cụ được nghỉ hưu, vài năm trước khi xảy ra cuộc tổngtấn công chiến lược quyết định cuộc chiến Xuân Bảy Lăm. Cả nhà vội kéo nhau vô SàiGòn lánh nạn. Riêng cụ phải ghé lại Đà Nẵng thăm chị Múa lấy chồng ở đó để giục chịcùng đi. “Lục sự chẳng là chi trong chính quyền, nhưng cũng hơn lục nồi lục tréc - ý cụnói là dân thường. Tránh họ - ý cụ nói lực lượng Quân giải phóng đang vào - thì hayhơn”. Rồi vì lý do thăm ông anh đang trụ trì tại một ngôi chùa ở đó, cụ ở lại Đà Nẵngmột mạch đến cuối năm Bảy lăm mới về, sau khi cả gia đình đã về quê từ giữa năm, kể cảgia đình chị Múa. Mọi người tưởng cụ “lánh nạn cải tạo” nên cũng không ai đả động gì.Cả nhà hơn chục miệng ăn, trong đó có hai người già chưa yếu và sáu đứa cháu trai trẻ,sức còn non, ăn no ngủ kỹ vô nghĩ vô lo trong tổng số mười bốn đứa cháu nội ngoại củacụ, mà triển vọng còn tăng thêm. Hình như để bù lại cho đời cụ chỉ sinh mỗi thằng contrai, anh chị Ca đẻ một mạch tám thằng. Vì vậy, tuy anh là con trai duy nhất, lại duy nhấtlà người được đi làm công nhân nhà nước từ năm Bảy sáu, nhưng chị Đờn và cả mấy côem phải xúm vào mà nuôi giùm anh Ca tám thằng bát bửu của ông. Những năm Bảy tám,Tám lăm “ăn bo bo, no mà đói”, cả nhà xanh xao như cái ao rau muống sau nhà. Đó là cáigia sản, cái xí nghiệp duy nhất của cả nhà sản xuất ra của cải để nuôi sống gần ba chụccon người. Vậy mà lạ, cả bầy cháu nội ngoại của cụ Trần Bảo cứ lớn ào ào, học giỏi nứctiếng Nội thành Huế. Đứa nhỏ nhất sinh năm Bảy tám cũng đã thi đậu vào trường Đại họcBách khoa Đà Nẵng. Ai cũng khen nhà cụ tốt phúc, lại bảo nhờ cụ có tính thương ngườinghèo khó nên con cháu được hưởng phúc của ông. Chị Đờn mệt thở không ra hơi vì phảilo chạy ăn cho cả nhà nhưng khi nào nhắc đến việc học của con cháu lại dòn cười tươikhóc: “Trời ơi! Biết lấy mô ra tiền chu cấp cho tụi bây học đại học, thành bác sĩ kỹ sư!Học vừa vừa thôi!”. Vậy mà khi thằng con út của chị trúng tuyển đại học, chị lại tong tảkhoe ngay với chị Hiếu, bạn hàng ở chợ: “Chết tui rồi chị Hiếu ơi! Thằng út lạiđậu!”. Vị chi đến nay, cả nhà chị, từ Cụ Trần Bảo đậu tú tài thời Pháp thuộc đến thằngcháu ngoại áp út, có cả thảy mười nhà khoa học, sáu nhà giáo, tám bác sĩ. Trong đó, biênchế thị trường tự do hết hai chục. Phúc đến thế thì vì sao dạo này cụ Trần Bảo lại trở nênbuồn, suốt ngày ca cải lương: “Hải Vân san, dặm ngàn cách trở! Ta nhớ thương nàng,không nỡ lìa xa! Nàng thương ta, quê cha lìa bỏ. Nỗi đau này biết tỏ cùng ai?”. Bà cụquê Bình Định, theo ông cụ về Huế đã hơn sáu mươi năm, đúng là quê cha lìa bỏ, theochồng về dinh. Nhưng vì sao hơn sáu mươi năm qua, ông cụ không hề ca cải lương, naylại ca một câu đậm mùi điềm gở? Cụ thỉnh thoảng chỉ ca cẩm lén lút sau lưng bà về cáitính hay ghen vặt khi thỉnh thoảng lại thấy ông đem tiền đi cho mấy o công nhân quétđường, mấy chị lỡ thì làm phụ thợ nề trong xóm. Bà cụ lâu lâu lại hét tướng lên: “Ôngkhông biết thương con thương cháu. Tiền mô mà ông đãi bánh nậm bánh ít cho mấy đứangười dưng?”. Chẳng là ông cụ có tính hay thương người, thỉnh thoảng gọi một gánh bánbánh dạo đến rồi kêu tụi nhỏ hoặc mấy o thợ nề làm thuê cho ăn no bụng. Chị Đờn là“tổng quản đại nhân” trong nhà, nên phải dè sẻn từng đồng gom góp của cả bảy gia đìnhnhỏ để nuôi chung gia đình lớn mà vẫn cứ phải nai lưng trả nợ trời ơi kiểu đ ...