Danh mục

Từ lý thuyết lượng tử đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại

Số trang: 35      Loại file: pdf      Dung lượng: 452.19 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 18,000 VND Tải xuống file đầy đủ (35 trang) 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ lý thuyết lượng tử đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại Hậu hiện đại (post-modernism), thoát thân từ hiện đại (modernism), là triết lý mang tính chất đa dạng, cái nhìn tương đối trong mọi vấn đề và hiện nay được thể hiện trong nhiều ngành nghệ thuật, văn hóa xã hội từ hội họa, kiến trúc, văn học...ở nhiều nước trên thế giới. Ít người trong chúng ta có thể nghĩ rằng Max Planck và thuyết lượng tử (quantum theory) của ông lại có liên hệ đến sự phát triển triết lý và văn hóa ở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ lý thuyết lượng tử đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại Từ lý thuyết lượng tử đến nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đạiHậu hiện đại (post-modernism), thoát thân từ hiện đại (modernism), là triết lýmang tính chất đa dạng, cái nhìn tương đối trong mọi vấn đề và hiện nay được thểhiện trong nhiều ngành nghệ thuật, văn hóa xã hội từ hội họa, kiến trúc, văn học...ởnhiều nước trên thế giới. Ít người trong chúng ta có thể nghĩ rằng Max Planck vàthuyết lượng tử (quantum theory) của ông lại có liên hệ đến sự phát triển triết lý vàvăn hóa ở phương Tây trong thế kỷ 20. Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, khoahọc, nhất là trong lãnh vực vật lý, mà nền tảng là thực nghiệm và khách quan đã cónhững sự va chạm trong lãnh vực tư tưởng và triết học với nghệ thuật và nhân vănmà cái nhìn tương đối của hậu hiện đại đã chiếm địa vị trọng tâm. Đã có nhiều nhànghiên cứu cho rằng khoa học và nghệ thuật là hai thế giới với tư duy và văn hóaquá khác biệt khó có sự gặp nhau. Nhưng trong lịch sử trước đây từ cuối thế kỷ 19đến nửa đầu thế kỷ 20, khoa học và nghệ thuật đã gặp nhau và bổ sung cho nhautrong giai đoạn quan trọng nhất của sự phát triển khoa học bắt đầu từ thời khaisáng ở thế kỷ 17, đặt nền tảng cho khoa học hiện đại ngày nay: vật lý lượng tử vàthuyết tương đối.Chính sự phát triển của thuyết lượng tử và sau này thuyết nguyên tử và tương đốiđã là cơ nguồn thúc đẩy phát sinh những tư tưởng, những nhận thức mới, nhữngđột phá trong lãnh vực triết lý, văn học, nghệ thuật ảnh hưởng đến những trào lưuhiện sinh (existentialism), siêu thực (surrealism), hiện đại (modernism) và từ đóđến hậu hiện đại (post-modernism) ngày nay.Khoa học, nhất là vào đầu thế kỷ 20, đã có ảnh hưởng sâu rộng trong nghệ thuật vàlà khởi nguồn của hứng cảm, suy tư của các triết gia, văn thi sĩ, họa sĩ... Họ dùngnhững thành quả và những khám phá mới trong khoa học vật lý để dũng cảm, tự tinđưa ra những nhận thức hoàn toàn mới đối với vật thể, thế giới chung quanh, thoátkhỏi những gò bó mà họ cho là đóng khung, cổ điển và không còn hợp thời vớicách mạng mà thuyết lượng tử đã mang lại.Để có thể hiễu rõ hơn về tiến trình ảnh hưởng của thuyết lượng tử đến văn hóaphương Tây trong thế kỷ 20, ta hãy xem xét tình hình khoa học và tư tưởng tronggiai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.Vật lý cổ điển qua cơ học của Newton và thuyết sóng điện từ của Maxwell cuối thếkỷ 19 hoàn toàn chiếm lãnh địa vị độc tôn là cơ sở các nhà khoa học dùng để tìmhiểu, phân tách giải thích sự kiện, quá trình của thiên nhiên. Khi Gustav Kirchoff,thầy của Max Planck, nghiên cứu về quang phổ phát ra từ vật nóng (blackbodyradiation) qua thí nghiệm đã chứng minh là năng lượng từ vật đen nóng phụ thuộcvào hai yếu tố, tầng số phát xạ và nhiệt độ. Ở nhiệt độ nhất định, năng lượng pháttừ vật đen tăng tỉ lệ với tầng số ở tầng số thấp đến điểm cực tối đa sau đó giảm khitầng số cao hơn. Khi nhiệt độ cao hơn thì đường biểu diễn cũng giống như vậynhưng cực điểm của năng lượng phát xảy ra ở tầng số cao hơn so với nhiệt độ thấp.Kirchoff, năm 1859, sau khi không thể dùng lý thuyết vật lý để chứng minh giảithích phù hợp với kết quả thí nghiệm, đã kêu gọi thách thức các nhà vật lý dùng lýthuyết làm sao chứng minh được phương trình giữa năng lượng, tần số và nhiệt độcủa năng lượng phát từ vật đen nóng.Trong hơn 40 năm, các nhà vật lý từ Stefan, Boltzman (Định luật Stefan-Boltzman)đến Wien (định luật Wien) đã đưa ra các công thức duy nghiệm cố gắng giải thíchphù hợp với kết quả thực nghiệm. Mùa thu 1900, sau khi nghe tin định luật Wien,qua kết quả thí nghiệm mới là không còn đúng ở các tần số thấp hơn nữa, MaxPlanck, trước đây đã quan tâm đến vấn đề trên và qua nhiều năm cố gắng khôngthành công dùng lý thuyết nhiệt động lực học mà ông chuyên tâm để tìm ra lời giảiđưa đến công thức cho hiện tượng phát xạ từ vật đen, đã lập tức trở lại vấn đề bỏdở trước đây và dùng phương thức giản dị nhất mà sau này Planck cho là may mắnqua trực giác để đưa ra công thức giải thích được thỏa đáng các dữ kiện thí nghiệmphát xạ từ vật đen. Nhưng ông không hài lòng là tìm được đúng phương trình quasuy đoán và trực giác mà theo ông thì nhất thiết phải dựa vào lý thuyết nào đó, nhưnhiệt động lực học với entropy, để giải ra nó thì mới toàn vẹn, có cơ sở và chínhxác.Ông đã dựa vào lý thuyết xác suất của Bolzmann về entropy qua sự chuyển độngcác “hạt” nguyên tử khí về sự liên hệ của entropy với độ hỗn loạn của các hạt tử vàđể có thể đặt một trị số cho độ hỗn loạn phải tìm cách phân chia năng lượng giữacác dao động phát sinh các tần số ở vật đen nóng. Chính tại điểm này, Planck đãnghĩ ra ý tưởng về các thành phần năng lượng - các mảnh năng lượng, của các daođộng mà khi hợp lại sẽ bằng tổng năng lượng phát ra từ vật đen. Cuối cùng ông đãxây dựng và giải ra công thức năng lượng phát ra từ vật đen đặt trên một ý niệm cơbản hoàn toàn bất ngờ và lạ lùng khi cho rằng năng lượng phát ra không phải liêntục mà là ngắt đoạn, riêng rẽ, từ ...

Tài liệu được xem nhiều: