Danh mục

Tứ quân tử: Mai, Lan, Cúc, Trúc trong tranh TQ

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 282.92 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mai, lan, trúc, cúc là đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Bốn chủng loại này đều có tính cách cao nhã. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Thế nên các văn nhân Trung Quốc ái mộ mà đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử. Hơn hai ngàn năm trước, thi nhân Khuất Nguyên đã so sánh hoa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tứ quân tử: Mai, Lan, Cúc, Trúc trong tranh TQ Tứ quân tử: Mai, Lan, Cúc, Trúc trong tranh TQMai, lan, trúc, cúc là đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Bốn chủng loạinày đều có tính cách cao nhã. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo.Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầytiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Thếnên các văn nhân Trung Quốc ái mộ mà đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử.Hơn hai ngàn năm trước, thi nhân Khuất Nguyên đã so sánh hoa lan với mỹ nhânrằng: «Thu lan hề thanh thanh, lục diệp hề tử hanh. Mãn đường hề mỹ nhân, hốtđộc dữ dư hề thả thành.» (Thu lan ơi mườn mượt, cọng tía cùng lá xanh. Đầy nhàtoàn người đẹp, riêng với ta đưa tình.)Hoa cúc trác việt siêu phàm. Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, từng thốt rằng: «Thu cúchữu giai sắc, ấp lộ chuyết kỳ anh, phiếm thử vong ưu vật, viễn ngã di thế tình.» (Hoacúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên tình buồn, lánh xa tìnhđời.)Đời Tống có ẩn sĩ Lâm Bô yêu hoa mai đến độ không cần có vợ con, chỉ chuyên tâmtrồng hoa mai và nuôi hạc. Người đời tặng cho ông câu «mai thê hạc tử» (hoa mai làvợ, chim hạc là con).Yêu trúc có thể kể đến Tô Thức. Ông nói: «Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vôtrúc.» (Thà ăn không có thịt chứ không thể ở thiếu trúc). Như vậy đủ biết địa vị củatrúc được đề cao như thế nào và các tao nhân mặc khách đều xem trúc là người bạnđường không thể thiếu được. Trúc mai : «Trúc là quân tử, mai là giai nhân.» – tranh của Thạch Đào đời ThanhCác họa gia cũng có cảm tình sâu đậm với tứ quân tử. Mai, lan, trúc, cúc và hội họaTrung Quốc quả có cái duyên không lìa. Trải bao tháng năm lịch sử, nhiều họa giahậu bối đã cải tiến họa pháp, thể hiện nhiều nét tân kỳ bất tận.Chủ đề tứ quân tử có tự bao giờ vẫn là vấn đề còn tranh cãi. Theo quyển Thập QuốcXuân Thu Ký một vị tướng quân của triều Nam Đường tên là Quách Sùng Thao khichinh phạt nước Thục đã bắt nhiều người. Trong số ấy có Lý phu nhân bị ông éplàm vợ. Lý phu nhân thường u sầu ủ rũ, thích ngồi một mình dưới trăng, ngắm cànhtrúc la đà. Do xúc cảm, bà dùng bút và mực đen vẽ nên tranh. Người ta cho rằngmặc trúc (trúc vẽ bằng mực đen) bắt đầu từ dạo ấy. Nhưng vị tất mặc trúc bắt đầutừ Lý phu nhân. Người ta biết chắc chắn tranh hoa điểu bắt nguồn từ đời Đườngvậy thì bảo mặc trúc có từ Hậu Đường cũng có thể tin được.Mai, lan, trúc, cúc bước vào hội họa chẳng qua vì chúng hàm hữu ý vị tượng trưngvăn học, tiêu biểu đức hạnh của người quân tử. Đời Tống có Văn Đồng, Tô Thức nổitiếng về mặc trúc, Thôi Bạch với mặc mai, Trịnh Tư Hữu, Triệu Mạnh Kiên vớimặc lan, cho đến Triệu Xương, Hoàng Cư Bảo với mặc cúc. Tất cả nhưng danh họagia này đã vun xới một mảnh đất, khai phóng một con đường giúp cho hội họa cáctriều đại kế tiếp được phát triển dễ dàng. Trúc - tranh của Từ Vị đời MinhVào đời Nguyên mặc trúc đã thịnh hành với các danh gia như Cao Phòng Sơn, LýTức Trai, Kha Cửu Tư, Nghê Vân Lâm, Ngô Trọng Khuê, Cố Định Chi, TriệuMạnh Phủ, Quản Trọng Cơ, v.v… Đặc biệt, Lý Tức Trai đã thâm nhập một ngôilàng trúc, nghiên cứu mọi tư thế của cây trúc, viết thành một quyển sách để đời gọilà Trúc Phổ. Kha Cửu Tư biên soạn quyển Họa Trúc Phổ nghiên cứu họa pháp vềtrúc đời Tống, có thể xem là sách gối đầu giường cho người sơ học.Trúc – tranh của Ngô Trấn đời NguyênĐến đời Minh, tranh mai, lan, trúc, cúc cực thịnh, danh họa gia cũng nhiều nhưTống Khắc, Vương Phất, Hạ Xưởng, Lỗ Đắc Chi, v.v… Nổi tiếng nhất là Hạ Xưởng.Ông tự Trọng Chiêu, bắt đầu học vẽ trúc và đá nơi Vương Phất. Về sau ông tự cảitiến lối vẽ trúc: thân trúc thẳng tắp ngạo nghễ, có sắc khói sương, chỗ đậm chỗ nhạtchỗ xơ xác cực kỳ ảo diệu. Thuở ấy có câu ca: «Hạ hương nhất cá trúc, Tây lươngthập đĩnh kim.» (Một cành trúc nơi quê ông Hạ Xưởng trị giá mười nén vàng ở TâyLương).Danh gia tiêu biểu về mặc mai có Vương Miện và Trần Hiến Chương.Vương Miệntự là Nguyên Chương vẽ mai thướt tha tiêu sái nổi tiếng đương thời. Vương Miện vàHạ Xưởng là cặp danh gia lừng lẫy; một người về mai, một người về trúc.Các họa gia đời Thanh vẫn tuân thủ họa pháp đời Minh. Nổi tiếng là Thạch Đào vàBát Đại Sơn Nhân, hai di thần triều Minh. Khi Mãn Thanh lật đổ nhà Minh, BátĐại Sơn Nhân giả điên giả câm chạy trốn vào núi lánh nạn, một thời làm hòathượng, một thời làm đạo sĩ. Bát Đại Sơn Nhân thuộc giòng dõi hoàng tộc, tên làChu Đáp. Bút hiệu của ông ngụ ý sâu sắc: Sơn Nhân có nghĩa là người ẩn dật nơisơn dã, còn Bát Đại 八大 khi viết thảo theo hàng dọc, chữ bát 八 thành hai chấm đèlên chữ đại 大, chúng gần giống chữ tiếu 笑 (cười) hay chữ khốc 哭 (khóc), bày tỏtâm trạng dở khóc dở cười. Ông dùng hội họa để tiêu sầu, họa pháp chủ về tả ý, đơnsơ mạnh bạo nhưng sống động, chất chứa nỗi lòng u ẩn. Họa pháp của Thạch Đàovà Bát Đại sơn nhân phóng túng tiêu sái không tuân theo những qui tắc sẵn có, nêncó thể đứng ri ...

Tài liệu được xem nhiều: