Tu sĩ Nepal và những lễ nghi tu hành khổ hạnh
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 752.01 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Muốn rũ bỏ mọi bụi trần và theo đuổi cuộc sống thanh tịnh. Đó chính là một trong những nguyên nhân để các tu sĩ khổ hạnh ở Kathmandu (Nepal) tồn tại đến tận bây giờ.Nepal có khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, bên cạnh đó, chính phủ Nepal cũng không hề can dự đến việc tu hành của những tu sĩ nên là điều kiện tuyệt vời cho các vị thầy tu thuộc các tôn giáo tu luyện. Từ tháng 2 đến tháng 3 hàng năm tại lễ thần Shiva, rất nhiều tu sĩ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tu sĩ Nepal và những lễ nghi tu hành khổ hạnh Tu sĩ Nepal và những lễ nghi tu hành khổ hạnhMuốn rũ bỏ mọi bụi trần và theo đuổi cuộc sống thanh tịnh. Đó chính là một trongnhững nguyên nhân để các tu sĩ khổ hạnh ở Kathmandu (Nepal) tồn tại đến tận bâygiờ.Nepal có khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, bên cạnh đó, chính phủNepal cũng không hề can dự đến việc tu hành của những tu sĩ nên là điều kiệntuyệt vời cho các vị thầy tu thuộc các tôn giáo tu luyện. Từ tháng 2 đến tháng 3hàng năm tại lễ thần Shiva, rất nhiều tu sĩ đổ về thủ đô Kathmandu, có lúc hơn10.000 người. Những người này thường tập trung khoảng một tháng rồi mới dầndần rời đi.Những thầy tu khổ hạnh theo Ấn Độ giáo thường xuất hiện trên các con phố củathủ đô Kathmandu (Nepal). Họ là những người đàn ông trung niên có bề ngoàirách rưới, trên mặt tô vẽ các hoa văn sặc sỡ. Những tu sĩ người Nepal được gọi làBaba (có nghĩa là một vị thánh), được coi là thiên sứ của thần linh và nhận đượcsự kính trọng của người dân.Nếu được họ chấm trên trán một nốt ruồi may mắn,người nhận sẽ phải trả cho họ 10 đến 20 rupee.Thông qua việc giảm thiểu tối đa nhu cầu vật chất, các tu sĩ khổ hạnh hy vọng sẽđược siêu thoát,nhận được sự che chở của thần linh và thoát khỏi mọi khổ đau của kiếp luân hồivô tận.Những tu sĩ ở Kathmandu chủ yếu đến từ Ấn Độ vì biên giới giữa Nepal và Ấn Độđược mở tự do cho người dân đi lại.Họ thường tụ tập bên ngoài ngôi đền Pashupati. Phần lớn các tu sĩ có tuổi trên 40và ở trần,được phủ lên người một lớp tro than hoặc thậm chí là tro của người chết. Họ hầunhư chẳng có một tài sản gì ngoài một cái bát.Trên mặt họ vẽ nhiều hoa văn có màu sắc khác nhau tượng trưng cho các giáophái.Do vậy trông họ có vẻ dữ tợn nhưng thực ra rất hiền lành.Các tu sĩ nhiều năm không tắm không rửa, tóc được búi qua loa trên đầu và râuđược buộc lại.Những người này chỉ tắm hai lần trong đời, đó là lúc sinh ra và lúc chết đi, do vậytrên người luôn bốc mùi khó chịu.Lúc thời tiết nóng nực, họ thường tập trung dưới mái hiên của các ngôi nhà đểhóng mát, chuyện trò.Lúc đêm lạnh thì họ đốt lửa và ngủ bên đống lửa. Các tu sĩ khổ hạnh cố gắnggiảm tối đa các nhu cầu của cuộc sống.Gối là những viên gạch cứng đờ, dưới thân chỉ lót một lớp vải và chẳng có gì đểđắp.Bình thường họ không uống nước.Việc khổ hạnh có liên quan đến sự áp bức giai cấp cách đây hàng ngàn năm.Các nhà tu hành muốn tu luyện đến cùng cực để đạt được sự bình đẳng.Họ cho rằng con người sinh ra đều bình đẳng như nhau,chỉ cần có lòng sùng kính thì đều nhận được sự che chở của thần thánh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tu sĩ Nepal và những lễ nghi tu hành khổ hạnh Tu sĩ Nepal và những lễ nghi tu hành khổ hạnhMuốn rũ bỏ mọi bụi trần và theo đuổi cuộc sống thanh tịnh. Đó chính là một trongnhững nguyên nhân để các tu sĩ khổ hạnh ở Kathmandu (Nepal) tồn tại đến tận bâygiờ.Nepal có khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, bên cạnh đó, chính phủNepal cũng không hề can dự đến việc tu hành của những tu sĩ nên là điều kiệntuyệt vời cho các vị thầy tu thuộc các tôn giáo tu luyện. Từ tháng 2 đến tháng 3hàng năm tại lễ thần Shiva, rất nhiều tu sĩ đổ về thủ đô Kathmandu, có lúc hơn10.000 người. Những người này thường tập trung khoảng một tháng rồi mới dầndần rời đi.Những thầy tu khổ hạnh theo Ấn Độ giáo thường xuất hiện trên các con phố củathủ đô Kathmandu (Nepal). Họ là những người đàn ông trung niên có bề ngoàirách rưới, trên mặt tô vẽ các hoa văn sặc sỡ. Những tu sĩ người Nepal được gọi làBaba (có nghĩa là một vị thánh), được coi là thiên sứ của thần linh và nhận đượcsự kính trọng của người dân.Nếu được họ chấm trên trán một nốt ruồi may mắn,người nhận sẽ phải trả cho họ 10 đến 20 rupee.Thông qua việc giảm thiểu tối đa nhu cầu vật chất, các tu sĩ khổ hạnh hy vọng sẽđược siêu thoát,nhận được sự che chở của thần linh và thoát khỏi mọi khổ đau của kiếp luân hồivô tận.Những tu sĩ ở Kathmandu chủ yếu đến từ Ấn Độ vì biên giới giữa Nepal và Ấn Độđược mở tự do cho người dân đi lại.Họ thường tụ tập bên ngoài ngôi đền Pashupati. Phần lớn các tu sĩ có tuổi trên 40và ở trần,được phủ lên người một lớp tro than hoặc thậm chí là tro của người chết. Họ hầunhư chẳng có một tài sản gì ngoài một cái bát.Trên mặt họ vẽ nhiều hoa văn có màu sắc khác nhau tượng trưng cho các giáophái.Do vậy trông họ có vẻ dữ tợn nhưng thực ra rất hiền lành.Các tu sĩ nhiều năm không tắm không rửa, tóc được búi qua loa trên đầu và râuđược buộc lại.Những người này chỉ tắm hai lần trong đời, đó là lúc sinh ra và lúc chết đi, do vậytrên người luôn bốc mùi khó chịu.Lúc thời tiết nóng nực, họ thường tập trung dưới mái hiên của các ngôi nhà đểhóng mát, chuyện trò.Lúc đêm lạnh thì họ đốt lửa và ngủ bên đống lửa. Các tu sĩ khổ hạnh cố gắnggiảm tối đa các nhu cầu của cuộc sống.Gối là những viên gạch cứng đờ, dưới thân chỉ lót một lớp vải và chẳng có gì đểđắp.Bình thường họ không uống nước.Việc khổ hạnh có liên quan đến sự áp bức giai cấp cách đây hàng ngàn năm.Các nhà tu hành muốn tu luyện đến cùng cực để đạt được sự bình đẳng.Họ cho rằng con người sinh ra đều bình đẳng như nhau,chỉ cần có lòng sùng kính thì đều nhận được sự che chở của thần thánh.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa văn hóa việt nam tài liệu văn hóa đặc trưng văn hóa việt nam lễ truyền thống lễ hội các nứcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 379 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Bù sáng: Chụp tay không cài đặt
5 trang 230 0 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
3 trang 155 0 0
-
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 135 0 0 -
189 trang 130 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 122 0 0 -
14 trang 117 0 0
-
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 116 0 0