Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết Phần 2
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 199.15 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Một số vấn đề lí thuyết của tự sự học hiện đại Trước hết ta thử xem định nghĩa mục từ Narratology của Gerand Prince trong Từ điển tự sự học (University of Nebraska Press xuất bản 1987).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết Phần 2 Tự sự học: Tên gọi,lược sử và một số vấn đề lí thuyết Phần 2 Một số vấn đề lí thuyết của tự sự học hiện đại Trước hết ta thử xem định nghĩa mục từ Narratology của Gerand Prince trong Từđiển tự sự học (University of Nebraska Press xuất bản 1987). - Lí thuyết về tác phẩm tự sự ra đời dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa cấu trúc.Narratology nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của các tác phẩm tự sự vớicác chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể sản sinh và đối tượng tiếpnhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm “nội dung câu chuyện” và“hình thức trần thuật” cùng mối quan hệ giữa hai cái đó. - Nghiên cứu tác phẩm tự sự trong tính cách là một biểu đạt văn tự đối với sự kiệncâu chuyện (tiêu biểu là G. Genette). Trong nghĩa hạn định này, narratology không quantâm bản thân câu chuyện, mà tập trung sự chú ý vào thoại ngữ tự sự. Như vậy có thể thấy, Narratology trong định nghĩa thứ nhất chính là một lí luận tổngquát liên quan đến mọi tác phẩm tự sự trong một trọn vẹn chỉnh thể và quá trình. Chúng tacó thể hiểu bao quát rằng, mọi tác phẩm tự sự ở đây là chỉ tất cả các loại hình và dạng thứctự sự, cho dù là tự sự trên/bằng/với chất liệu/phương tiện nào chứ không chỉ là ngôn từ lờinói. Nó cũng nghiên cứu hai đầu của cái quá trình giao tiếp tự sự đó - chủ thể sản sinh tự sựvà kẻ tiếp nhận tự sự. Đó không chỉ là hình ảnh một người nói/viết và bên kia, hình ảnhngười đọc/người nghe. Tất cả các tác phẩm tự sự đều vật chất hoá thành một dạng “vănbản” bởi những chủ thể tác giả tồn tại/hiển hiện trên những cấp độ bao hàm nhau “kể” chonhững đối tượng thụ nhận cũng tồn tại/hiển hiện trên những cấp độ bao hàm tương ứng một“câu chuyện”. Narratology trong định nghĩa thứ hai có một sở chỉ hạn định hơn. Nó nghiên cứu vănhọc tự sự (tiểu thuyết, truyện kể là thực liệu điển hình). Thậm chí nó còn tiếp tục giới hạnsự quan tâm trong phạm vi hình thức biểu đạt câu chuyện bằng lời văn tự. Ở đây nhắc đếnG. Genette như là đại diện tiêu biểu của khuynh hướng tự sự học này. Ta đều biết tác phẩmđại biểu của Gérard Genette là Thoại ngữ tự sự (Discours du recit. Seuil, 1972. J.E. Lewindịch ra tiếng Anh Narrative Discourse.Ithaca: Cornell Univ. Press, 1980). Trong đó Genetteđề xuất khái niệm ngữ thái, phân xuất thoại ngữ trần thuật và hành động trần thuật từ cáithực thể mà chẳng hạn Mieke Bal (Hà Lan) cũng gọi bằng tiếng Pháp là văn bản tự sự(texte narratif). Những tác phẩm tự sự bằng/ trên chất liệu khác dĩ nhiên không liên quanđến khái niệm ngữ thái của Genette. Trong truyền thống lí luận văn học phương Tây, thuật ngữ narrative, naration lànhững thuật ngữ có cả lịch sử hai ngàn năm, hàm nghĩa hết sức phức tạp, nhiều lúc chúngchứa đựng những sở chỉ ngược nhau. Thông thường naration chỉ động tác, hoạt động hoặclà một danh từ biểu thị hoạt động (động danh từ). Ta có thể dịch là trần thuật, thuật kể, kể,sự kể. Còn narrative được dịch là tự sự, chỉ cái được trần thuật ra, nó là một sự thực chứkhông là một hoạt động. Tự sự học hiện đại cố gắng khu biệt narrative và naration như làkhu biệt giữa “chuyện kể ra” và “hoạt động kể chuyện”. Người ta giả định rằng mọi chuyệntrên đời cho tới trước lúc được kể nên lời, là cứ tồn tại trong trạng thái “vốn thế”. Và nhữngsự - việc tồn tại “vốn thế” đó không phải là narrative (tạm gọi là truyện kể, hoặc chuyện kể- trong cách nói “chuyện kể rằng...”) mà là story (tạm gọi là chuyện, câu chuyện, trong cáchnói “có một câu chuyện...”). Các học giả Trung Quốc gọi cái này là “cố sự” (với nghĩa“chuyện đã xảy ra” - nhấn mạnh yếu tố “cố”. Chúng tôi tạm lấy đầu đề Cố sự tânbiên dịch theo cách của Trương Chính - Chuyện cũ viết lại để minh hoạ cho ý này). Saukhi ta thuật ra/kể nên “chuyện đã xảy ra” đó thì mới có kết quả hiện trình narrative, tức làmột câu chuyện do hình tượng một người trần thuật hướng về độc - thính giả từ một góc độnào đó, tồn tại trong một kết cấu ngôn từ nhất định. Công việc đó trở nên có khả năng chínhlà nhờ hoạt động naration. Chung quy, naration dịch thành “thuật kể/trần thuật/kể chuyện”chỉ hoạt động, còn narrative dịch thành “tự sự/ truyện kể”, chỉ kết quả của hoạtđộng narration, cái kết quả “chuyện kể ra” hoặc nói chính xác hơn “chuyện có được nhờkể, chuyện nhờ kể mà nên”. Vì nói “câu chuyện” sợ người ta vẫn nghĩ đến “chuyện đã xảyra” chưa từng kể đến chứ không phải là những “chuyện xưa kể rằng” - sản phẩm thườngthấy trong nền văn hoá đọc. Thế nhưng, những rào đón như thế này thường cũng khó mà tựmình kín kẽ. Ta hoàn toàn có thể cật vấn rằng, vậy làm thế nào để biết đến những “cố sự”đó? Huống hồ có cho đó là “sự cố” hay không lại còn là một chuyện khác. Làm thế nào đểbiết đó là những sự - việc tồn tại “vốn thế” (sự - việc dưới “dạng bản lai chân diện mục”)trong “thực tế hiện thực”? Cái “câu chuyện/story/histoire/cố sự” theo nghĩa này phải được ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết Phần 2 Tự sự học: Tên gọi,lược sử và một số vấn đề lí thuyết Phần 2 Một số vấn đề lí thuyết của tự sự học hiện đại Trước hết ta thử xem định nghĩa mục từ Narratology của Gerand Prince trong Từđiển tự sự học (University of Nebraska Press xuất bản 1987). - Lí thuyết về tác phẩm tự sự ra đời dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa cấu trúc.Narratology nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của các tác phẩm tự sự vớicác chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể sản sinh và đối tượng tiếpnhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm “nội dung câu chuyện” và“hình thức trần thuật” cùng mối quan hệ giữa hai cái đó. - Nghiên cứu tác phẩm tự sự trong tính cách là một biểu đạt văn tự đối với sự kiệncâu chuyện (tiêu biểu là G. Genette). Trong nghĩa hạn định này, narratology không quantâm bản thân câu chuyện, mà tập trung sự chú ý vào thoại ngữ tự sự. Như vậy có thể thấy, Narratology trong định nghĩa thứ nhất chính là một lí luận tổngquát liên quan đến mọi tác phẩm tự sự trong một trọn vẹn chỉnh thể và quá trình. Chúng tacó thể hiểu bao quát rằng, mọi tác phẩm tự sự ở đây là chỉ tất cả các loại hình và dạng thứctự sự, cho dù là tự sự trên/bằng/với chất liệu/phương tiện nào chứ không chỉ là ngôn từ lờinói. Nó cũng nghiên cứu hai đầu của cái quá trình giao tiếp tự sự đó - chủ thể sản sinh tự sựvà kẻ tiếp nhận tự sự. Đó không chỉ là hình ảnh một người nói/viết và bên kia, hình ảnhngười đọc/người nghe. Tất cả các tác phẩm tự sự đều vật chất hoá thành một dạng “vănbản” bởi những chủ thể tác giả tồn tại/hiển hiện trên những cấp độ bao hàm nhau “kể” chonhững đối tượng thụ nhận cũng tồn tại/hiển hiện trên những cấp độ bao hàm tương ứng một“câu chuyện”. Narratology trong định nghĩa thứ hai có một sở chỉ hạn định hơn. Nó nghiên cứu vănhọc tự sự (tiểu thuyết, truyện kể là thực liệu điển hình). Thậm chí nó còn tiếp tục giới hạnsự quan tâm trong phạm vi hình thức biểu đạt câu chuyện bằng lời văn tự. Ở đây nhắc đếnG. Genette như là đại diện tiêu biểu của khuynh hướng tự sự học này. Ta đều biết tác phẩmđại biểu của Gérard Genette là Thoại ngữ tự sự (Discours du recit. Seuil, 1972. J.E. Lewindịch ra tiếng Anh Narrative Discourse.Ithaca: Cornell Univ. Press, 1980). Trong đó Genetteđề xuất khái niệm ngữ thái, phân xuất thoại ngữ trần thuật và hành động trần thuật từ cáithực thể mà chẳng hạn Mieke Bal (Hà Lan) cũng gọi bằng tiếng Pháp là văn bản tự sự(texte narratif). Những tác phẩm tự sự bằng/ trên chất liệu khác dĩ nhiên không liên quanđến khái niệm ngữ thái của Genette. Trong truyền thống lí luận văn học phương Tây, thuật ngữ narrative, naration lànhững thuật ngữ có cả lịch sử hai ngàn năm, hàm nghĩa hết sức phức tạp, nhiều lúc chúngchứa đựng những sở chỉ ngược nhau. Thông thường naration chỉ động tác, hoạt động hoặclà một danh từ biểu thị hoạt động (động danh từ). Ta có thể dịch là trần thuật, thuật kể, kể,sự kể. Còn narrative được dịch là tự sự, chỉ cái được trần thuật ra, nó là một sự thực chứkhông là một hoạt động. Tự sự học hiện đại cố gắng khu biệt narrative và naration như làkhu biệt giữa “chuyện kể ra” và “hoạt động kể chuyện”. Người ta giả định rằng mọi chuyệntrên đời cho tới trước lúc được kể nên lời, là cứ tồn tại trong trạng thái “vốn thế”. Và nhữngsự - việc tồn tại “vốn thế” đó không phải là narrative (tạm gọi là truyện kể, hoặc chuyện kể- trong cách nói “chuyện kể rằng...”) mà là story (tạm gọi là chuyện, câu chuyện, trong cáchnói “có một câu chuyện...”). Các học giả Trung Quốc gọi cái này là “cố sự” (với nghĩa“chuyện đã xảy ra” - nhấn mạnh yếu tố “cố”. Chúng tôi tạm lấy đầu đề Cố sự tânbiên dịch theo cách của Trương Chính - Chuyện cũ viết lại để minh hoạ cho ý này). Saukhi ta thuật ra/kể nên “chuyện đã xảy ra” đó thì mới có kết quả hiện trình narrative, tức làmột câu chuyện do hình tượng một người trần thuật hướng về độc - thính giả từ một góc độnào đó, tồn tại trong một kết cấu ngôn từ nhất định. Công việc đó trở nên có khả năng chínhlà nhờ hoạt động naration. Chung quy, naration dịch thành “thuật kể/trần thuật/kể chuyện”chỉ hoạt động, còn narrative dịch thành “tự sự/ truyện kể”, chỉ kết quả của hoạtđộng narration, cái kết quả “chuyện kể ra” hoặc nói chính xác hơn “chuyện có được nhờkể, chuyện nhờ kể mà nên”. Vì nói “câu chuyện” sợ người ta vẫn nghĩ đến “chuyện đã xảyra” chưa từng kể đến chứ không phải là những “chuyện xưa kể rằng” - sản phẩm thườngthấy trong nền văn hoá đọc. Thế nhưng, những rào đón như thế này thường cũng khó mà tựmình kín kẽ. Ta hoàn toàn có thể cật vấn rằng, vậy làm thế nào để biết đến những “cố sự”đó? Huống hồ có cho đó là “sự cố” hay không lại còn là một chuyện khác. Làm thế nào đểbiết đó là những sự - việc tồn tại “vốn thế” (sự - việc dưới “dạng bản lai chân diện mục”)trong “thực tế hiện thực”? Cái “câu chuyện/story/histoire/cố sự” theo nghĩa này phải được ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3395 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 787 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 748 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 715 0 0 -
6 trang 609 0 0
-
2 trang 457 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 392 0 0 -
4 trang 366 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 311 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 242 0 0