Thông tin tài liệu:
Theo thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, người ta ở đời, giàu nghèo sướng khổ là do số phận định trước bởi trời.”Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”. Người ta bằng kinh nghiệm ở đời mà suy ra huyền bí của càn khôn và từ ấy, người ta cho tài mệnh không hợp nhau: “Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau” hay như Lý Thương Ẩn nói : “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương”.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH TRONG TRUYỆN KIỀU –phần 2 TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH TRONGTRUYỆN KIỀU –phần 2Theo thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, người ta ở đời, giàunghèo sướng khổ là do số phận định trước bởi trời.”Tử sinh hữumệnh, phú quý tại thiên”. Người ta bằng kinh nghiệm ở đời màsuy ra huyền bí của càn khôn và từ ấy, người ta cho tài mệnhkhông hợp nhau: “Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau” hay nhưLý Thương Ẩn nói : “Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương”.Người ta không chịu tìm nguyên nhân trong xã hội mà lại theokhuynh hướng duy tâm thần bí mà suy ra rằng, sở dĩ có điều bấtbình là bởi đạo trời vốn ghét cái trọn vẹn: “Tạo vật đố toàn, tạohóa kị doanh”. Cho nên cái lẽ “bỉ sắc tư phong” người ta gọi làluật thừa trừ trong kiếp người. Không những Thúy Kiều, ĐạmTiên mà cả Tây Thi, Điêu Thuyền, Chiêu quân…đều như vậy.“Hồng nhan tự thưở xưa – Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.Các tao nhân mặc khách cảm giai nhân khổ sở mà ai oán nhưvậy. Không những ở phương Đông mà ở phương Tây, xưa naycác thi hào vẫn khóc “má hồng phận bạc” như: Héléne,Héloise,… Suy rộng ra, cái luật thừa trừ ấy, trong tư tưởng Tâyphương có chỗ tương tự. Luật ấy rất giống luật cân nhắc màngười Hi Lạp xưa tiêu biểu bằng thần thoại Némésis.Thi sĩ Tố Như không phải là nhà Nho thuần túy. Cái tính đa cảm,những kinh nghiệm đau đớn đã khai thông mở lối cho ông. Ôngthỏa mãn với luật thừa trừ, nhưng nó chỉ mới là điều nhận xéttuồng như đúng mà chưa cắt nghĩa về lý do. Ông không chịu conngười không có trách nhiệm về sự cân nhắc họa phúc của trời.Ông bèn lấy chữ Nghiệp của đạo Phật mà phát huy chữ Mệnhcủa Nho Giáo.Thúy Kiều tuy là món đồ chơi của vận mệnh nhưng là món đồchơi có ý thức, chứ không bù nhìn. Nàng đã dự cảm được vậnmệnh không ra gì từ lúc còn nhỏ; rồi khi bán mình, nàng thấy sựhi sinh và nghĩa vụ của nàng phù hợp với số mệnh. Có lúc nàngchống lại số mệnh, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”nhưng không thành đành phải ẩn nhẫn: “Kiếp này nợ trả chưaxong – Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau” hay “Kiếp xưa đãvụng đường tu – Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi”. Nàng lấyThúc Sinh để thoát nợ lửa nồng, rứa mà bị hành hạ ở nhà HoạnThư, nàng đành ”túc trái tiền oan” mà chịu khổ. Rồi trốn Quan âmCác lại rơi vào lầu xanh, thực là, “chạy chẳng khỏi trời”, thôi “phảiliều má phấn cho rồi ngày xanh”. Có khi nàng nghiến răng quyềnrủa: “Chém cha cái số má đào - Gở ra rồi lại buộc vào nhưkhông!”. Cuộc đời nàng như trò đùa dai của số mệnh, trước sauchỉ “…nhắm mắt đưa chân – Mà xem con tạo xoay vần đếnđâu?”…Do bế tắc trong tư tưởng Tài – Mệnh, ông đành mở một lối thoátbằng cách dùng đến chữ Nghiệp trong Phật giáo:“Đã mang lấy nghiệp vào thânThì đừng trách lẫn trời gần đất xa”Sở dĩ Thúy Kiều có số phận mong manh như vậy; cái bỉ sắc tưphong chỉ là nhận xét bên ngoài; thực ra cái tiềm ẩn bên trongchính là những kết quả, những nghiệp duyên mà nàng đã vuntạo. Nàng đã có cái nghiệp tiềm ẩn bên trong nên từ lời nói chođến tiếng đàn đều mang âm hưởng khổ đau. Người có cái nghiệpnhư vậy nên rất đa tình đa cảm; hai cái đó là cái mối vô hình, sợidây vô tướng để đi vào con đường mà mình đã họa nên:“Nàng rằng: Nhân quả dở dangĐã toan trốn nợ đoạn tràng được sao.Số còn nặng nợ má đào,Người đà muốn chết, trời nào có cho?”Dưới ánh sáng nhân - duyên học, các quan điểm Thiên mệnh,Định mệnh đều bị ngã quỵ, không thể tồn tại mà xưng hùng xưngbá để đày đọa kiếp người. “Bắt phong trần phải phong trần. Chothanh cao mới được phần thanh cao.” Con người trôi lăn là dobởi chính hành vi thất niệm của mình. Con người có tự do trongviệc tạo y báo và chánh báo, nhưng với điều kiện là phải cóchánh niệm; còn không thì mãi mãi sẽ loanh quanh luẫn quẫntrong vòng mâu thuẫn đố kị, trôi lăn trong quỹ đạo của vòng trònnhân quả. Chính thi sĩ Tố Như từ những mâu thuẫn trong nội tâmmà phải lênh đênh, “ở không yên ổn – ngồi không vững vàng”.Rốt cùng, ông phải thốt lên “tu là cội phúc”, tức là chuyển hóa cáctâm hành để thăng hoa đời sống của mình. Đó là lối thoát duynhất trong tư tưởng Tài - Mệnh của Nguyễn Du. ...