Tương làng Bần
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 253.87 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tương bần hay tương của người làng Bần (nay thuộc thị trấn Bần Yên Nhân, Hưng Yên) nổi tiếng thơm ngon khắp cả nước, là đặc sản của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ở làng Bần, tương là một nghề gia truyền qua các thế hệ. Ngày trước, vào mỗi mùa tương (từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm) nhà nào cũng rục rịch chuẩn bị làm vài ba hũ tương để dùng quanh năm… những năm gần đây do quá trình đô thị hóa và những thông tin về an toàn thực phẩm, khiến nghề làm tương của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tương làng Bần Tương làng BầnTương bần hay tương của người làng Bần (nay thuộc thị trấn Bần YênNhân, Hưng Yên) nổi tiếng thơm ngon khắp cả nước, là đặc sản của vùngđồng bằng Bắc Bộ.Ở làng Bần, tương là một nghề gia truyền qua các thế hệ. Ngày trước, vàomỗi mùa tương (từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm) nhà nào cũng rục rịchchuẩn bị làm vài ba hũ tương để dùng quanh năm… những năm gần đây doquá trình đô thị hóa và những thông tin về an toàn thực phẩm, khiến nghềlàm tương của làng mai một dần. Hiện chỉ một số gia đình còn truyền thốnglàm tương tại nhà, thay vào đó, tương được làm theo công nghệ hiệnđại, bán trên khắp cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.Cô Vân Loan đang dùng đũa đảo để mốc lên màu vàng đềuNguyên liệu làm tương được người làng Bần chọn gồm gạo nếp, đậu nành,muối. Gạo nếp được vo kỹ, ngâm nước rồi hấp thành xôi. Rải xôi trên nia(được làm bằng tre) hay trên mặt phẳng rộng phơi nơi thoáng mát cho lênmốc vàng. Mỗi ngày dùng đũa đảo cơm nếp để mốc lên đều. Khi xôi đãthành mốc, nhuộm một màu vàng ươm thì có thể chuẩn bị ngâm đậu nành.Xôi nếp đang lên mốc vàngĐậu nành: loại bỏ những hạt lép, rồi rang trên bếp với ngọn lửa nhỏ để bêntrong chín giòn, vỏ ngoài vàng đều. Để nguội đậu nành đã rang, cho vào hũsành ngâm nước sạch khoảng 1 tuần. Ngâm đậu nành cũng phải rất khéo thìtương mới đạt độ ngon ngọt như mong muốn, nếu ngâm non quá hay già quámột tuần đều có thể ảnh hưởng tới chất lượng tương sau này. Nếu đúng làđặc sản làng Bần thì đậu nành, gạo nếp đều được trồng trên chính đất củalàng, uống nước của làng, thì tương làm ra sẽ thơm ngon hơn nhiều.Chum sành dùng để ngâm và ủ tương ở làng BầnSau một tuần ngâm đậu nành, dùng nước ngâm này cho mốc vào bópnhuyễn, khi mốc đã nhuyễn cho thêm đậu nành, muối vào đảo đều. Muốntương ngon, phải ngâm trong những chiếc chum (vại) bằng sành. Vì khimang tương ra ngoài nắng phơi, ánh sáng mặt trời làm nóng chum, giúptương chín nhanh hơn. Trời càng nhiều nắng thì tương chín càng nhanh. Đểtương nhuyễn và lên màu, người làm tương phải thường xuyên khuấy tươngvào buổi sáng, và trưa. Tương phải được phơi nắng ít nhất 2 tháng, và caohơn có thể từ 2 đến 3 năm. Tương càng được phơi kỹ trong nắng thìcàng dậy mùi.Tương bầnKhi tương đã chín, chiết tương từ những chum sành sang hũ, chai lọ... đểdùng dần. Cũng từ đây tương bần bắt đầu lên phố, đi khắp các vùng miềncủa Việt Nam. Tương bần rất dễ ăn, ăn kèm với bánh đúc, đậu phụ chiên,rau muống, cà… hay dùng để làm gia vị cho các món canh, kho cá… Vịngọt thơm của nếp, nồng ngậy của tương kết hợp với nhau làm nên hương vịđặc sản không lẫn vào đâu được của người dân làng Bần.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tương làng Bần Tương làng BầnTương bần hay tương của người làng Bần (nay thuộc thị trấn Bần YênNhân, Hưng Yên) nổi tiếng thơm ngon khắp cả nước, là đặc sản của vùngđồng bằng Bắc Bộ.Ở làng Bần, tương là một nghề gia truyền qua các thế hệ. Ngày trước, vàomỗi mùa tương (từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm) nhà nào cũng rục rịchchuẩn bị làm vài ba hũ tương để dùng quanh năm… những năm gần đây doquá trình đô thị hóa và những thông tin về an toàn thực phẩm, khiến nghềlàm tương của làng mai một dần. Hiện chỉ một số gia đình còn truyền thốnglàm tương tại nhà, thay vào đó, tương được làm theo công nghệ hiệnđại, bán trên khắp cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.Cô Vân Loan đang dùng đũa đảo để mốc lên màu vàng đềuNguyên liệu làm tương được người làng Bần chọn gồm gạo nếp, đậu nành,muối. Gạo nếp được vo kỹ, ngâm nước rồi hấp thành xôi. Rải xôi trên nia(được làm bằng tre) hay trên mặt phẳng rộng phơi nơi thoáng mát cho lênmốc vàng. Mỗi ngày dùng đũa đảo cơm nếp để mốc lên đều. Khi xôi đãthành mốc, nhuộm một màu vàng ươm thì có thể chuẩn bị ngâm đậu nành.Xôi nếp đang lên mốc vàngĐậu nành: loại bỏ những hạt lép, rồi rang trên bếp với ngọn lửa nhỏ để bêntrong chín giòn, vỏ ngoài vàng đều. Để nguội đậu nành đã rang, cho vào hũsành ngâm nước sạch khoảng 1 tuần. Ngâm đậu nành cũng phải rất khéo thìtương mới đạt độ ngon ngọt như mong muốn, nếu ngâm non quá hay già quámột tuần đều có thể ảnh hưởng tới chất lượng tương sau này. Nếu đúng làđặc sản làng Bần thì đậu nành, gạo nếp đều được trồng trên chính đất củalàng, uống nước của làng, thì tương làm ra sẽ thơm ngon hơn nhiều.Chum sành dùng để ngâm và ủ tương ở làng BầnSau một tuần ngâm đậu nành, dùng nước ngâm này cho mốc vào bópnhuyễn, khi mốc đã nhuyễn cho thêm đậu nành, muối vào đảo đều. Muốntương ngon, phải ngâm trong những chiếc chum (vại) bằng sành. Vì khimang tương ra ngoài nắng phơi, ánh sáng mặt trời làm nóng chum, giúptương chín nhanh hơn. Trời càng nhiều nắng thì tương chín càng nhanh. Đểtương nhuyễn và lên màu, người làm tương phải thường xuyên khuấy tươngvào buổi sáng, và trưa. Tương phải được phơi nắng ít nhất 2 tháng, và caohơn có thể từ 2 đến 3 năm. Tương càng được phơi kỹ trong nắng thìcàng dậy mùi.Tương bầnKhi tương đã chín, chiết tương từ những chum sành sang hũ, chai lọ... đểdùng dần. Cũng từ đây tương bần bắt đầu lên phố, đi khắp các vùng miềncủa Việt Nam. Tương bần rất dễ ăn, ăn kèm với bánh đúc, đậu phụ chiên,rau muống, cà… hay dùng để làm gia vị cho các món canh, kho cá… Vịngọt thơm của nếp, nồng ngậy của tương kết hợp với nhau làm nên hương vịđặc sản không lẫn vào đâu được của người dân làng Bần.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Văn hóa ẩm thực Xu hướng ẩm thực bữa ăn của người Việt ẩm thực Việt Nam khuynh hướng ẩm thựcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam và thế giới: Phần 2
135 trang 297 6 0 -
Báo cáo khoa học Bước đầu tìm hiểu văn hóa ẩm thực Trà Vinh
61 trang 251 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực (Trình độ: Cao đẳng & Trung cấp) - Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
98 trang 247 5 0 -
69 trang 230 5 0
-
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 196 0 0 -
từ điển văn hóa ẩm thực việt nam: phần 2
418 trang 183 4 0 -
Vài nét về văn hóa ẩm thực Nam Bộ
4 trang 149 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam và thế giới: Phần 1
163 trang 142 6 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 2 - Thạc sĩ Nguyễn Văn Nhựt
92 trang 96 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 2 - Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
201 trang 87 1 0