Tượng ngoài trời và môi trường thành phố là vấn đề được nêu ra để bàn bạc và xét đoán mỗi khi có công trình điêu khắc ngoài trời được xây dựng. Tượng ngoài trời (ở ta thường gọi là tượng đài) có giá trị nghệ thuật cao thường mang dấu tích văn hoá của một thời, đậm sắc màu riêng biệt của một vùng, một dân tộc, như Cột đá chùa Dạm ở Bắc Giang, tượng Đầu người mình thú ở Ai Cập, tượng Nữ thần chiến thắng ở Hy Lạp, tượng Những người công dân thành Calais của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TƯỢNG NGOÀI TRỜI VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU ĐẠT
TƯỢNG NGOÀI TRỜI VÀ NGHỆ
THUẬT BIỂU ĐẠT
một tác phẩm của Henry Moore
Tượng ngoài trời và môi trường thành phố là vấn đề được nêu ra để bàn bạc
và xét đoán mỗi khi có công trình điêu khắc ngoài trời được xây dựng.
Tượng ngoài trời (ở ta thường gọi là tượng đài) có giá trị nghệ thuật cao
thường mang dấu tích văn hoá của một thời, đậm sắc màu riêng biệt của một
vùng, một dân tộc, như Cột đá chùa Dạm ở Bắc Giang, tượng Đầu người
mình thú ở Ai Cập, tượng Nữ thần chiến thắng ở Hy Lạp, tượng Những
người công dân thành Calais của Rodin ở Pháp, v.v...
Ngày nay, sự xuất hiện của những pho tượng ngoài trời, không chỉ mang ý
nghĩa đơn thuần của một pho tượng, mà với sự phát triển của công nghiệp,
với tốc độ phát triển của xây dựng đô thị, nó còn mang ý nghĩa thiết định lại
trên một trình độ cao hơn mối tương quan, hài hoà của một môi trường thẩm
mỹ thời đại. Sự phát triển như vậy của nghệ thuật điêu khắc, tất yếu sẽ dẫn
đến một hình thức tiếp nhận mới về nghệ thuật. Điều đó như đã thấy, một tác
phẩm điêu khắc ngoài trời không chỉ giới hạn trong những hình thức tạo
hình của thể loại điêu khắc thông thường (nghĩa là phải tạo hình về một đối
tượng cụ thể) bó hẹp không gian với những thưởng ngoạn miễn cưỡng (như
các tượng thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19) đặt tượng trên một cái bệ khuôn thức và
tạo thành môi trường ngăn cách.
Hình thức của điêu khắc, nhất là với tượng ngoài trời đã có nhiều nét mới
mẻ, có khả năng chiếm đoạt một môi trường không gian rộng lớn, thu hút
mọi hoạt động nơi có tượng trở thành hình bóng hoặc là một thành phần của
tác phẩm đó.
Điêu khắc ra đời và sự tồn tại của nó đã tác thành những tiếng nói riêng,
những hình khối khác nhau biểu hiện một tình cảm khác nhau và những hình
khối giống nhau trong một bố cục khác nhau càng lại không trùng hợp với
nhau về tiếng nói. ở mỗi tác phẩm tiếng nói của nó càng khác biệt. Trong
điêu khắc, sự định hình về ngôn ngữ hình khối lại càng rõ ràng, vì vậy khi
sáng tác nhà điêu khắc bao giờ cũng có ý thức tìm cho điều mình định nói
bằng một hình khối có nghĩa tương đồng và tìm cho bố cục chung của tác
phẩm một thể thức không trái ngược với tinh thần và ý tứ. Chẳng hạn khi
muốn thể hiện một cái gì nhiệt tình và sôi nổi không thể bằng những khối
mềm mại và phẳng lặng, khi muốn tải một điều gì trữ tình thì không áp dụng
các hình khối cố tình ức chế một nội dung bên trong như tượng Ai Cập. Cặp
Tình yêu của Moore đã dùng những khối đá khổng lổ, diễn tả các chi tiết dè
dặt như điêu khắc Ai Cập nhưng vẫn không ai bắt bẻ. Bởi vì cặp Tình yêu
dùng hình thức ấy không phải giống như cách diễn tả tình yêu có tính chất
say đắm của Rodin mà là vẻ đẹp có ý nghĩa triết lý về tình yêu, một tình yêu
vĩnh cửu, bất biến trong nhân loại. ở trường hợp nào cũng thế khi mô tả một
nhân vật nào phải hiểu sâu tính cách nhân vật ấy.
Mô tả một con người kiên nghị và nếu con người ấy tính trầm lặng thì không
thể dùng những hình khối có tính xáo động, khi thể hiện vẻ mặt của những
đứa trẻ ngây thơ thì không dùng các hình thức mạnh bạo, mà tốt hơn bằng
những hình thức dịu dàng. Tính chất dịu dàng hay mạnh mẽ còn tuỳ thuộc
vào chất liệu, mỗi chất liệu có những đặc tính riêng, nhưng những đặc tính
ấy được phát triển và có nhiều khả năng biểu đạt nghệ thuật khi được các
nghệ sĩ có kinh nghiệm vận dụng vào tác phẩm của mình. Chẳng hạn với
chất liệu đá cẩm thạch, nhà điêu khắc Subin đã thành công khi xây dựng
hình tượng Lô-mô-nô-xốp. Ông đã tạo nên những khối mềm ăn hợp với chất
đá và biết lợi dụng khả năng của chất liệu truyền đạt những tình cảm ấm
cúng và dịu dàng của nhân vật. Tượng có khối tròn đầy đơn giản, không chú
ý chi tiết (đá cẩm thạch không ưa lối tả nhiều chi tiết) nhưng lại rất tạo hình,
sự chuyển tiếp từ hình này sang hình khác rất mềm mại, làm cho người ta
nghĩ ngay đến khí chất của Lô-mô-nô-xốp, một người chất phác giàu tính
cách Nga.
Chỉ có như vậy thôi, thế mà hàng chục thế kỷ không thể lặp lại, nếu trước
đây người Hy Lạp trong các tượng của mình đã người hoá các vị thần trên
núi cao, thì ngày nay, những tác phẩm điêu khắc phản ánh về con người
cũng phải được nâng lên mức lý tưởng. Cho nên nghệ thuật có bắt đầu từ tự
nhiên vẫn phải sử dụng cách tạo hình sáng tạo, nghĩa là phải thấu hiểu những
nghĩa đa chiều của ngôn ngữ, đặc biệt là vấn đề không gian. Trước đây,
tượng tròn chỉ đặt trong nhà, ngày nay tượng ngoài trời được chú ý. Vấn đề
không gian đã đặt ra như vấn đề phát triển của ngôn ngữ làm tượng ngoài
trời không đơn giản chuyển hình thức tượng nhỏ sang lớn, không gian trong
nhà ra ngoài trời. Nó có yêu cầu khắc nghiệt hơn của tầm nhìn, của tổ chức
mối quan hệ thẩm mỹ trong xã hội. Tượng phải gắn với không gian, không
gian phải được coi như phương diện tạo hình trong xây dựng hình tượng.
Với bức tượng ngoài trời, cái sống động đầu tiên mà người ta nhìn thấy là
tác động của ánh sáng và khung cảnh bao quanh. Nhà điêu khắc cần phải tuỳ
thuộc vào mỗi cảnh để chọn hình thức tạo hình. Họ phải biết sử ...