Thông tin tài liệu:
Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định đầu tư một cách cảm tính. Liệu có khả năng ứng......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ứng dụng mô hình CAPM đa biến để dự báo tỷ suất lợi nhuận và rủi ro trên TTCK Việt Nam
Ứng dụng mô hình CAPM đa biến để dự báo tỷ suất lợi nhuận và rủi ro trên TTCK Việt
Nam
Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để dự báo tỷ suất
sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang tính chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua là
bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu
tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định đầu tư một
cách cảm tính. Liệu có khả năng ứng dụng một mô hình dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay?
Vào những năm giữa thập niên 60, ba nhà kinh tế học William Sharpe, John Lintner và Jack
Treynor đã đưa ra mô hình CAPM (Capital Asset Pricing Model) nhằm dự báo tỷ suất sinh lợi
của một chứng khoán thông qua beta của chứng khoán đó. Mô hình CAPM không phải là mô
hình duy nhất dự báo tỷ suất sinh lợi nhưng nó có nền tảng lý thuyết vững chắc. Mặc dù có
nhiều tranh luận và nghiên cứu về tính ổn định của beta cũng như những kiểm định thực nghiệm
về mô hình CAPM nhưng về cơ bản CAPM được xem là hiệu quả và đã tồn tại suốt 40 năm qua.
Trong những nghiên cứu gần đây, mô hình CAPM đã được bổ sung những nhân tố khác nhằm
có thể dự báo tỷ suất sinh lợi một cách chính xác hơn. Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy
ngoài beta còn có các biến như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ
sách (PBV). Đặc biệt trong thị trường các nước mới nổi, sự tác động của tỷ số giá trên thu nhập
(P/E) và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (PVB) lên tỷ suất sinh lợi chứng khoán là khá rõ nét.
Cùng với mô hình CAPM, P/E và giá trị thị trường trên giá trị sổ sách được dùng như là các công
cụ dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường các nước mới nổi. Điều này hàm ý một
mô hình CAPM đa biến với các biến là: beta, P/E và PBV.
Mục đích của bài viết này đánh giá khả năng sử dụng mô hình CAPM đa biến trên để dự báo tỷ
suất sinh lợi của cổ phiếu trong tương lai ở thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng
khoán Việt Nam có sự khác biệt so với các thị trường đã phát triển bởi sự kỳ vọng vào bản chất
không thuần nhất giữa các nhà đầu tư trên thị trường và sự năng động vốn có của chúng. Đây là
thị trường có những đặc trưng bởi sự biến động lớn và tỷ suất sinh lợi trung bình cao.
Mô hình dự báo tỷ suất sinh lợi của chứng khoán
Thông qua việc kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập là beta, E/P và PBV so với biến
phụ thuộc là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng bằng cách kết hợp so sánh chéo và các quan sát chuỗi thời
gian, chúng tôi sử dụng 3 mô hình sau để thực hiện kiểm định thực nghiệm trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Rit = λ0 +λ1EPit +λ2βit + εit (1)
Rit = λ0 + λ3PBVit + λ2βit + εit (2)
Rit = λ0 + λ1EPit +λ2βit + λ3PBVit +εit (3)
Trong đó:
Rit = 3 tháng đối với tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cho chứng khoán i trên thị trường
EPit là chỉ số E/P trung bình của chứng khoán i trên thị trường
PBVit là chỉ số giá thị trường/giá sổ sách của chứng khoán i trên thị trường
là beta của chứng khoán i trên thị trường
λ1, λ2, λ3: là hệ số hồi quy
εit: sai số
Tỷ suất sinh lợi được dùng trong mô hình là tỷ suất sinh lợi cho thời kỳ 3 tháng. Vì thế, trước tiên
chúng tôi tính toán tỷ suất sinh lợi 3 tháng cho mỗi chứng khoán trên thị trường chứng khoán
trong tháng t bằng cách coi tháng đó là khoảng thời gian khởi đầu. Do đó, tỷ suất sinh lợi 3
tháng, Rt,t+1, được nhận thấy như là % thay đổi trong giá chứng khoán vào thời điểm t+j so với
thời điểm t và được thể hiện theo công thức sau:
với j = 3, 6, 12
Do đó, một nhà đầu tư hoạt động vào tháng t sẽ nhận được Rt,t+j sau j tháng, khi j nhận giá trị là
3, 6 hoặc 12. Khi khoảng thời gian đo lường tỷ suất sinh lợi liên tiếp theo tháng, chúng tôi chỉ
chọn những quan sát với tỷ suất sinh lợi không trùng khớp nhau. Do đó khi chúng tôi tính toán tỷ
suất sinh lợi trong 3 tháng, chúng tôi quan sát hàng tháng trong tháng 1, 4, 7, và 10 mỗi năm
trong mẫu. Sau đó chúng tôi kiểm tra liệu tỷ suất sinh lợi tương lai 3 tháng có thể được dự đoán
hay không bằng cách xem giá trị trung bình của E/P và PBV.
Trong thời kỳ tỷ suất sinh lợi 3 tháng, sự ảnh hưởng thì thấp, được chỉ ra bởi giá trị R2 thấp:
thống kê t thất bại trong việc bác bỏ giả thiết không có giá trị cho rằng các hệ số của E/P và
PBV là 0.
Ứng dụng mô hình dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Mô hình này là một nỗ lực để khám phá ra các công cụ như chỉ số E/P và PBV để dự báo tỷ
suất sinh lợi thị trường trung bình trong thời kỳ dài. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô hình trên vào
dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường các nước mới nổi nói chung và vào thị trường chứng khoán
Việt Nam nói riêng sẽ có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam quá nghèo nàn về chủng loại, ít ỏi về
số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư lâu
dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ phía Nhà nước nhằm tạo thêm sự phong phú về
hàng hóa cho thị trường chứng khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa cao. Vì thế, thị trường
chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệc là những nhà đầu tư chuyên
nghiệp và có nguồn lực tài chính lớn.
Thứ hai, sự thiếu vắng hệ số beta trong việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách
khác, các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số beta trong việc đánh giá chứng khoán. Hiện nay,
trên website các công ty chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản về tài chính và so sánh với
tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web cũng đề cập đến hệ số beta trong danh mục khái
niệm các chỉ số tài chính cần phân tích nhưng chưa thực sự có ý định sử dụng nó. Phần lớn chỉ
là nêu những chỉ số tài chính chung có liên quan đến danh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn (ROE),
lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, ho ...