Danh mục

Ứng dụng mô hình toán đánh giá vai trò làm giảm độ cao sóng của rừng ngập mặn ở vùng ven biển Hải Phòng

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.11 MB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết này trình bày một số kết quả ứng dụng mô hình toán dựa trên hệ thống mô hình Delft3d do Viện Thủy lực Delft (Hà Lan) phát triển để nghiên cứu vai trò làm giảm độ cao sóng của một số dải rừng ngập mặn ở vùng ven biển Hải Phòng. Mô hình toán được thiết lập cho một số kịch bản khác nhau với các điều kiện có rừng ngập mặn (thực tế) và không có rừng ngập mặn (giả định) bằng các công thức của Baptist (2005), Collins (1972) và De Vries-Roelvink (2004).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ứng dụng mô hình toán đánh giá vai trò làm giảm độ cao sóng của rừng ngập mặn ở vùng ven biển Hải Phòng Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 1; 2015: 67-76 DOI: 10.15625/1859-3097/15/1/6082 http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TOÁN ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ LÀM GIẢM ĐỘ CAO SÓNG CỦA RỪNG NGẬP MẶN Ở VÙNG VEN BIỂN HẢI PHÒNG Vũ Duy Vĩnh Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàm lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam E-mail: vinhvd@imer.ac.vn Ngày nhận bài: 29-5-2014 TÓM TẮT: Các dải rừng ngập mặn ven biển không chỉ có ý nghĩa lớn đối với môi trường sinh thái mà còn có vai trò rất quan trọng trong việc giảm độ cao sóng, bảo vệ bờ biển. Mặc dù vậy, vấn đề đánh giá định lượng mức độ giảm sóng của rừng ngập mặn còn khá mới mẻ. Bài viết này trình bày một số kết quả ứng dụng mô hình toán dựa trên hệ thống mô hình Delft3d do Viện Thủy lực Delft (Hà Lan) phát triển để nghiên cứu vai trò làm giảm độ cao sóng của một số dải rừng ngập mặn ở vùng ven biển Hải Phòng. Mô hình toán được thiết lập cho một số kịch bản khác nhau với các điều kiện có rừng ngập mặn (thực tế) và không có rừng ngập mặn (giả định) bằng các công thức của Baptist (2005), Collins (1972) và De Vries-Roelvink (2004). Các kết quả cho thấy: trong các điều kiện thời tiết bình thường, độ cao sóng lớn nhất sau rừng ngập mặn chỉ còn dưới 0,1 m (ở khu vực ven bờ Bàng La - Đại Hợp) và dưới 0,3 m (Ngọc Hải - Tân Thành). Hệ số suy giảm độ cao sóng ở các khu vực này dao động trong khoảng 0,15-0,6. Trong điều kiện bão nhỏ, độ cao sóng lớn nhất sau rừng ngập mặn đã giảm chỉ còn 0,5 - 0,8 m, tương ứng với hệ số suy giảm độ cao sóng trung bình khoảng 0,4 (Bàng La - Đại Hợp) và 0,32 (Ngọc Hải - Tân Thành). Đối với bão lớn, độ cao sóng sau rừng ngập mặn lớn nhất chỉ còn 0,8 - 1,1 m, với hệ số suy giảm độ cao sóng trung bình khoảng 0,28 (Bàng La - Đại Hợp) và 0,25 (Ngọc Hải - Tân Thành). Từ khóa: Giảm sóng, mô hình Delft3d, Hải Phòng, cây ngập mặn, mô hình. MỞ ĐẦU Ngoài ý nghĩa quan trọng về môi trường sinh thái, các dải rừng ngập mặn (RNM) ở ven biển còn có vai trò rất quan trọng trong việc làm giảm độ cao sóng bảo vệ bờ biển [1]. Chính vì vậy vấn đề đánh giá vai trò của RNM trong việc bảo vệ bờ biển ngày càng được quan tâm nhiều hơn đặc biệt trong bối cảnh thiên tai và tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp. Cho đến nay có hai hướng nghiên cứu chủ yếu về vấn đề này đã được thực hiện. Hướng nghiên cứu thứ nhất dựa vào các kết quả đo đạc, khảo sát độ cao sóng ở những khoảng RNM khác nhau để đánh giá vai trò của RNM trong việc làm giảm độ cao sóng. Tiêu biểu theo hướng nghiên cứu này là các kết quả của Sato [2, 3], Mazda và nnk [4]. Hướng nghiên cứu này bị hạn chế do giới hạn về số liệu đo đạc và sự suy giảm sóng nhận được thực chất là tổng hợp của cả cây ngập mặn, địa hình nền rừng chứ không phải chỉ do cây ngập mặn. Hướng nghiên cứu thứ hai dùng các mô hình toán dựa trên các điều kiện như mật độ cây, thân, rễ cây ngập mặn để mô phỏng sự lan truyền sóng và có thể khắc phục được những hạn chế từ cách tiếp cận bằng số liệu đo đạc. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là một số kết quả của Frank Dekker [5], Bastiaan [6], Jande Vos [7]. Ở nước ta, có nhiều dải RNM khá đặc trưng nên không chỉ nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các tác giả nước 67 Vũ Duy Vĩnh ngoài [4, 8, 9] mà đã có các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước được công bố quốc tế về vấn đề này như nghiên cứu về vai trò làm giảm năng lượng sóng của RNM Cần Giờ [10, 11]; vai trò làm giảm độ cao sóng của RNM ở ven bờ châu thổ sông Hồng và RNM khu vực Cần Giờ (Nam Bộ) qua một số mặt cắt khác nhau [12]. Vùng ven biển Hải Phòng là nơi nhận nguồn phù sa lớn từ hệ thống sông Hồng-Thái Bình và có các điều kiện thuận lợi khác cho sự phát triển của cây ngập mặn. Đây là khu vực này chịu ảnh hưởng của chế độ thời tiết mang tính chất nhiệt đới gió mùa và thủy triều có tính chất nhật triều điển hình với độ lớn triều trung bình từ 3 - 4 m. RNM ở khu vực Bàng La - Đại Hợp gồm các loại cây chủ yếu là Bần, Trang, Trang Bần. Ở đây RNM được trồng từ năm 1999. Các kiểu rừng phổ biến ở khu vực này là: Trang xen Bần ở gần bờ, sau đó đến Trang ở giữa và phía ngoài biển là Bần chua. Bảng 1. Cấu trúc RNM ở các khu vực nghiên cứu Bàng La - Đại Hợp Khu vực Kiểu rừng Bần xen Trang Trang Bần Bần Số lượng cây trung bình/m 0,047 1,840 0,048 0,271 Đường kính thân lớn nhất (m) 0,280 0,200 0,290 0,042 Đường kính thân trung bình (m) 2 0,250 0,150 0,230 0,037 Chiều cao thân lớn nhất (m) 6,2 3,3 6,4 2,5 Chiều cao thân trung bình (m) 6,0 2,0 6,1 1,8 85 20 82 50 2 Số lượng rễ trung bình/m Thành phần cây RNM khu vực Ngọc Hải Tân Thành chủ yếu là Bần chua, được trồng từ năm 2000 và trồng bổ sung trong những năm gần đây với dải rừng rộng 200 - 450 m. Ngoài Bần chua, ở khu vực này còn có một số loài cây ngập mặn khác như Sú, Trang nhưng số lượng khá nhỏ. Mặc dù RNM ở khu vực này chủ yếu là rừng trồng với thành phần cây là Bần, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: